Trong phần trước chúng ta đã nói về quy phạm như phương thế để trưởng thành nhân linh. Phần này sẽ khảo sát cái nằm đằng sau quy phạm - cái cung ứng cho quy phạm động cơ và năng lực. Nguồn động lực ấy, theo tôi, là tình yêu. Xin nói ngay rằng tôi vẫn biết mọi cố gắng khảo sát tình yêu đều chỉ là đùa giỡn với mầu nhiệm. Song dẫu sao, chúng ta cũng sẽ cố khảo sát điều không-thể-khảo-sát được và cố hiểu điều-không-thể-hiểu được. Tình yêu mênh mông quá và sâu thẳm quá, ta không thể nào hiểu hết hay đo lường hết, cũng không thể nhốt gọn vào trong một mớ ngôn từ. Đã hẳn những dòng chữ này sẽ không được viết ra nếu tôi không tin cố gắng của mình có chút gì giá trị. Dù sao, tôi cũng muốn nhìn nhận ngay từ đầu rằng cố gắng của mình - cách nào đó - sẽ vẫn còn khiếm khuyết.
Cũng vì bản tính mầu nhiệm của tình yêu mà, theo tôi biết, chưa từng có ai đã đúc kết được một định nghĩa thỏa đáng tình yêu là gì.
Bởi đó khi muốn giải thích tình yêu, người ta chẻ nó ra thành nhiều phạm trù: tình dục, khuynh năng, bác ái, tình yêu trọn vẹn và tình yêu không trọn vẹn, v.v... Ở đây, dù biết rằng không thể nào hoàn toàn thỏa đáng, tôi cũng xin đưa ra một định nghĩa cho tình yêu: Tình yêu là ý chí mở rộng bản ngã ra để cho chính mình hay người khác được trưởng thành hơn về mặt tinh thần.
Trước khi khai triển sâu hơn, tôi muốn chú giải vắn tắt định nghĩa mình vừa giới thiệu. Điều có thể ghi nhận trước tiên: đó là một định nghĩa theo hướng mục-đích-luận (teleology); nghĩa là ý nghĩa của chức năng nằm trong mục tiêu hay hướng đích mà nó phục vụ cho - trong trường hợp này, hướng đích đó là sự trưởng thành tinh thần.
Các nhà khoa học thường có khuynh hướng nghi ngờ những định nghĩa có tính mục-đích-luận, và có lẽ đó cũng là số phận của định nghĩa này. Tuy nhiên, tôi đã không đi đến định nghĩa nêu trên bằng một quá trình suy tư đậm nét mục-đích-luận. Thay vào đó, tôi đã đi con đường quan sát thực tiễn tâm thần lâm sàng (kể cả nội quan nữa), một địa hạt mà trong đó định nghĩa tình yêu luôn có tầm rất quan trọng. Sở dĩ thế bởi vì các bệnh nhân thường nhập nhằng lộn xộn về bản chất của tình yêu. Chẳng hạn, một cậu trai nhút nhát đã kể với tôi: “Mẹ cháu yêu cháu lắm. Bà không cho phép cháu đi học bằng xe buýt mãi cho tới năm cuối trung học. Thực ra, cháu đã phải van xin thống thiết lắm mới được bà để cho đi xe buýt. Bà sợ cháu bị này nọ nếu đi về bằng xe buýt. Vì vậy bà lái xe đưa đón cháu mỗi ngày, một việc khá vất vả đối với bà. Thật là mẹ cháu yêu cháu lắm”.
Cũng như nhiều trường hợp khác, để chữa trị sự nhút nhát của cậu trai này, cần phải giúp đương sự hiểu rằng bà mẹ anh ta được thúc đẩy bởi một cái gì khác đúng hơn là tình yêu, và rằng có những cái xem ra có vẻ là tình yêu lại thường không phải là tình yêu chi cả.
Chính từ kinh nghiệm này mà tôi đã thu thập rất nhiều ví dụ điển hình về những hành động xuất phát từ tình yêu và những hành động xem ra không phải bởi tình yêu. Có thể xem mục đích mà người ta hướng đến (một cách ý thức hay vô thức) như một trong những nét phân biệt chủ yếu để nhận ra hành động của họ có phải là tình yêu hay không.
Thứ đến, có thể thấy rằng theo định nghĩa nêu trên, tình yêu là một tiến trình luân lưu kỳ lạ. Vì tiến trình mở rộng bản ngã là một tiến trình đi lên. Khi một người mở rộng được vòng đai giới hạn của mình, người ấy đã lớn lên hơn xét trên bình diện hữu thể. Vì thế hành vi yêu thương là một hành vi thăng tiến chính bản ngã ngay cả khi mục đích của nó là sự trưởng thành của người khác. Chính nhờ vươn tới trưởng thành mà chúng ta trưởng thành.
Thứ ba, trong định nghĩa duy nhất về tình yêu ấy có bao hàm cả tình yêu đối với chính mình lẫn tình yêu đối với tha nhân. Vì tôi là người và bạn là người, nên tôi yêu người có nghĩa là yêu cả tôi lẫn bạn. Dấn thân cho cuộc phát triển nhân linh chính là dấn thân cho cả chủng loại mà chúng ta là phần tử, và vì thế đó là phụng sự cho cuộc phát triển của mình lẫn người. Thật vậy, như đã thấy, chúng ta không thể yêu một ai khác nếu như không yêu chính mình, cũng hệt như chúng ta không thể dạy con cái mình sống kỷ luật nếu chính chúng ta không sống kỷ luật trước. Trong lãnh vực tinh thần, không thể có chuyện nhịn phát triển mình để người khác được phát triển; không có ai lớn lên hơn được nhờ ở sự khựng lại của bạn đâu. Chúng ta không thể sống phóng túng mà đồng thời vẫn có thể mực thước và quy củ trong việc săn sóc người khác. Làm sao chúng ta có thể thông truyền sức mạnh nếu chính chúng ta không dinh dưỡng sức mạnh của mình. Trên hành trình khám phá bản tính tình yêu, tôi tin rằng rồi sẽ đến lúc chúng ta thấy rõ yêu người và yêu mình không chỉ song song như bóng với hình mà rốt cuộc đó chính là hai thực tại trùng khít không còn phân biệt được nữa.
Thứ tư, hành động mở rộng vòng đai giới hạn mình ra luôn đòi nỗ lực. Người ta chỉ có thể mở rộng các giới hạn bằng cách đẩy chúng ra xa và hành vi đẩy này đòi phải có nỗ lực. Khi chúng ta yêu một ai đó, tình yêu của ta chỉ đích thực khi nó được chứng tỏ bằng cố gắng - có thể chỉ là cố gắng bước tới thêm một bước nữa, nhưng có khi đó là cố gắng lội bộ thêm cả dặm đường. Tình yêu không êm ái nhàn nhã. Trái lại, yêu là dốc sức, là nhọc nhằn.
Cuối cùng, khi định nghĩa “tình yêu là ý chí...”, tôi muốn vượt lên trên sự phân biệt giữa ước muốn và hành động. Ước muốn không nhất thiết phải được chuyển hóa thành hành động. Sự khác biệt giữa hai đàng cũng giống như sự khác biệt giữa lời nói rằng “tôi thích đi bơi tối nay” và “tôi sẽ đi bơi tối nay”. Mọi người chúng ta, cách nào đó, đều ước muốn yêu thương, nhưng thực sự thì nhiều người không đang yêu thương. Vì thế tôi cho rằng ước muốn yêu tự nó không phải là tình yêu. Tình yêu là cái gì năng động, là một hành động của ý chí - nghĩa là, gồm cả ý hướng lẫn hành động. Ý chí cũng bao hàm sự chọn lựa. Không ai bắt chúng ta phải yêu. Chúng ta yêu vì chúng ta chọn như thế. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đang yêu tha thiết song kỳ thực chúng ta không đang yêu - thì tựu trung đó cũng bởi vì chính ta chọn “không yêu” và do đó không đang yêu thực bất kể chúng ta có những ý hướng tốt lành nào đi nữa. Đàng khác bất cứ khi nào chúng ta thực sự dốc sức phục vụ cho sự trưởng thành nhân linh, thì đó là vì chúng ta đã chọn làm thế: chúng ta đã chọn yêu thương!
Như tôi đã đề cập, các bệnh nhân đến với tâm lý trị liệu đều ít nhiều được thấy là ngộ nhận về bản chất của tình yêu. Sở dĩ thế bởi vì có quá nhiều quan niệm sai lạc về tình yêu được người ta dán lên khuôn mặt của huyền nhiệm tình yêu. Quyển sách này không có tham vọng dò thấu tính huyền nhiệm của tình yêu, nhưng tôi hy vọng có thể làm sáng tỏ những vấn đề đủ để giúp người ta đánh tan các ngộ nhận vốn là nguyên nhân đau khổ không chỉ cho bệnh nhân mà là cho mọi người khi họ cố gắng vận dụng các kinh nghiệm của chính bản thân họ. Một số các đau khổ này tôi cho là có thể tránh được nếu người ta được chỉ cho thấy để giảm bớt những quan niệm lệch lạc phổ biến nào đó về tình yêu - và để hiểu đúng đắn hơn tình yêu là gì. Vì vậy, trong cố gắng khám phá bản chất tình yêu, tôi muốn bắt đầu bằng việc khảo sát xem tình yêu không là gì.
Trong số các ngộ nhận về tình yêu, ngộ nhận phổ biến nhất và sâu đậm nhất là tin rằng: “phải lòng” là yêu hay ít nhất nó cũng là một trong những biểu hiện của tình yêu. Đây là một ngộ nhận tế nhị và thâm sâu, vì phải lòng có nhiều nét khiến người ta tưởng như đúng là tình yêu thật. Khi một người phải lòng, chắc chắn điều mà người ấy cảm thấy là “tôi yêu nàng” hay “tôi yêu chàng”. Nhưng có hai vấn đề có thể thấy rõ ngay: Một là, phải lòng bao giờ cũng là một kinh nghiệm liên quan chuyên biệt đến tình dục và giới tính. Chúng ta không phải lòng con cái chúng ta, mặc dù chúng ta thương yêu chúng sâu sắc. Chúng ta không phải lòng các bạn cùng phái (trừ khi ta có khuynh hướng đồng tính luyến ái) - mặc dù chúng ta có thể rất ân cần quan tâm đến các bạn mình. Chúng ta chỉ phải lòng khi bị thúc đẩy bởi động cơ tính dục - dù chúng ta có ý thức hay không ý thức về điều đó. Hai là, phải lòng là một kinh nghiệm rất tạm bợ, chóng qua. Dù ta có phải lòng ai đi nữa, chẳng chóng thì chầy, ta sẽ thấy “hết yêu” khi mà mối quan hệ kéo dài đủ một mức nào đó. Tôi không có ý nói rằng bao giờ chúng ta cũng sẽ hết yêu người mà chúng ta đã phải lòng. Điều tôi muốn nói là: cái cảm xúc yêu bồng bột vốn là đặc điểm của kinh nghiệm phải lòng ấy bao giờ cũng trôi qua.
Tuần trăng mật nào rồi cũng chấm dứt. Niềm rạo rực lãng mạn nào rồi cũng lắng xuống, tàn phai.
Để hiểu bản chất của hiện tượng phải lòng và sự chấm dứt bất khả kháng của nó, rất cần phải hiểu bản chất của cái mà các nhà tâm thần học gọi là những vành đai bản ngã. Theo những gì chúng ta phát hiện được qua các chứng cứ gián tiếp, đứa trẻ mới sinh trong vài tháng tuổi đầu tiên xem ra không hề phân biệt giữa bản thân nó và thế giới xung quanh. Khi nó nhúc nhích tay chân là cả thế giới nhúc nhích. Nó đói nghĩa là cả thế giới đói. Khi nó nhìn mẹ nó cử động thì cơ hồ như chính nó cử động. Khi mẹ nó hát ru, nó không biết rằng chính nó thì không đang hát. Đứa bé không thể phân biệt giữa mình với chiếc tua nôi, với căn phòng và với cha mẹ nó. Cái sống động và cái vô hồn, với nó, chỉ là một. Không có khác biệt giữa chủ thể và đối tượng. Nó và thế giới là một. Không có vành đai không có chia cách. Không có cá thể tính (identity).1 Nhưng với kinh nghiệm, đứa bé bắt đầu cảm nghiệm được chính nó như một hữu thể phân biệt với thế giới xung quanh. Khi nó đói không phải mẹ nó luôn luôn có mặt để cho nó bú. Khi nó muốn chơi không phải bao giờ mẹ nó cũng hưởng ứng. Rồi đứa bé còn kinh nghiệm thấy những ước muốn của mình không phải là những ý muốn của mẹ. Ý muốn của đứa bé được cảm nghiệm như một cái gì tách biệt khỏi thái độ và cử chỉ của mẹ nó. Một cảm thức về cái “tôi” bắt đầu thành hình. Người ta tin rằng chính mối quan hệ hỗ tương này giữa đứa bé và người mẹ là mảnh đất nảy sinh và phát triển cảm thức về cá thể tính nơi đứa trẻ. Người ta cũng quan sát thấy rằng khi mối tương quan giữa người mẹ với đứa trẻ bị cản ngại nghiêm trọng (chẳng hạn trẻ không mẹ và không có người bảo mẫu thích hợp hoặc do người mẹ có vấn đề về tâm thần mà không quan tâm săn sóc đứa trẻ...) thì đứa trẻ ấy sẽ lớn lên thành một thiếu nhi rồi thành một người lớn với khiếm khuyết trầm trọng trong cảm thức về cá thể tính.
Khi đứa trẻ nhận ra ý muốn của nó là của riêng nó chứ không phải của thế giới xung quanh nó cũng bắt đầu có những phân biệt khác nữa giữa nó và thế giới. Khi nó muốn cử động thì cánh tay nó vẫy trước mắt nó - chứ không phải cái tua nôi hay tấm trần nhà đang cử động. Rồi đứa bé hiểu rằng giữa cánh tay và ý muốn của nó có mối liên hệ với nhau, như vậy cánh tay ấy là của nó chứ không phải của cái gì khác hay của ai khác. Bằng cách này, trong năm đầu tiên của cuộc đời, chúng ta biết một cách cơ bản mình là ai và mình không là ai, mình là gì và mình không là gì. Đến khoảng tròn một tuổi chúng ta biết và phân biệt được tay, chân, đầu, lưỡi, mắt... của mình và thậm chí ta biết cái nhìn của mình, tiếng nói, ý nghĩ của mình, cơn đau bụng của mình, cảm xúc của mình. Chúng ta biết kích thước và giới hạn của thân thể mình. Những giới hạn ấy là những vòng đai của chúng ta. Và sự nhận hiểu những giới hạn ấy trong tâm trí chúng ta chính là cái mà ta gọi: vành đai bản ngã.
Quá trình phát triển vành đai bản ngã là một quá trình tiếp tục xuyên suốt tuổi ấu thời, qua tuổi thanh niên và thậm chí đến cả tuổi trưởng thành. Song những vành đai hình thành muộn hơn sẽ thuộc tâm lý nhiều hơn thể lý. Chẳng hạn, khoảng giữa 2 và 3 tuổi là khoảng thời gian mà đứa trẻ ý thức các giới hạn khả năng của nó.
Trong khi trước đó, đứa trẻ dù ghi nhận rằng ước muốn của nó thì không tất yếu là ước muốn của mẹ - song nó vẫn khư khư cho rằng có thể ước muốn của mình là ước muốn của mẹ, và nó nghĩ lẽ ra ước muốn của nó phải được mẹ đáp ứng. Chính vì nó nghĩ và mong như thế nên đứa trẻ ở tuổi lên hai thường phản ứng như một nhà độc tài hay bạo chúa; nó ra lệnh cho cha mẹ, cho anh chị và cho chó mèo trong nhà như thể tất cả là quân sĩ phải răm rắp tuân lệnh chủ tướng. Nó vùng vằng tức giận khi mệnh lệnh của nó không được chấp hành. Ta hiểu tại sao các bậc cha mẹ thường gọi lứa tuổi này là tuổi “khó chịu”. Sang tuổi lên ba, đứa trẻ thường trở nên ngoan hiền hơn vì nó đã biết chấp nhận thực tế bất lực của mình. Tuy vậy ngưỡng vọng toàn năng vẫn là một giấc mơ ngọt ngào đến nỗi đứa trẻ không thể rứt bỏ hoàn toàn ngay cả sau nhiều năm tháng nếm mùi khổ sở vì sự bất lực của mình. Mặc dù đứa trẻ ba tuổi đã biết chấp nhận những giới hạn khả năng của nó, lúc này lúc khác trong một số năm sau đó đứa trẻ vẫn còn tiếp tục bị cám dỗ để nghĩ rằng vẫn có tồn tại một khả năng vô hạn - nhất là khả năng vô hạn của nó.
Đó là thế giới của Siêu Nhân và của thuyền trưởng Marvel. Tuy nhiên dần dần ngay cả những siêu anh hùng cũng sụp đổ, và vào giai đoạn giữa tuổi thanh niên các cô cậu biết rằng mình là những cá nhân - với những giới hạn của khả năng và thể lý; mỗi người là một cá thể yếu ớt mong manh, chỉ có thể tồn tại nhờ liên kết với các cá thể khác để tạo thành đoàn nhóm gọi là xã hội. Trong đoàn nhóm của mình, họ không đặc biệt nổi bật lên; song những đặc điểm cá thể, những vòng đai và những giới hạn riêng sẽ tách biệt mỗi người khỏi những người khác.
Bên trong những vành đai ấy là cả một nỗi cô đơn. Một số người - đặc biệt những người mà các bác sĩ tâm thần gọi là “mắc chứng tảo điên” - do bị trải qua những chấn động tâm cảm trong tuổi ấu thời họ đi đến cảm nhận rằng thế giới xung quanh mình là một cái gì nguy hiểm vô phương hóa giải, một cái gì thật tởm gớm, hỗn độn và vô bổ.
Đối với họ, các vành đai bản ngã là những thành lũy bảo vệ họ, và họ cảm thấy được an toàn trong nỗi cô đơn. Nhưng với đa số người ta thì cô đơn là đau khổ, và họ cố thoát ra khỏi những rào chắn của các đặc điểm cá thể - để có thể liên kết nhiều hơn với thế giới bên ngoài mình. Sự phải lòng là một trường hợp thoát ra như vậy, và thoát ra chỉ một cách tạm bợ. Cốt lõi của hiện tượng phải lòng là sự sụp đổ bất ngờ một phần vành đai bản ngã của đương sự, cho phép đương sự hoà lẫn cá thể tính của mình với cá thể tính của người kia. Kèm theo cuộc sụp đổ các vành đai bản ngã là sự bất thần mở ngõ chính mình, là “tia lửa điện” từ mình nổ ra “bắn” về phía người ấy, là nỗi cô đơn đột nhiên tan biến... Tất cả những điều ấy được phần đông chúng ta cảm nghiệm như một niềm hoan lạc. Giờ đây tôi và người ấy là một; tôi không còn cô đơn nữa!
Xét theo một vài khía cạnh thì phải lòng là một hành vi hoài niệm.
Cảm nghiệm hòa lẫn chính mình với người yêu, cách nào đó, là dư âm vọng lại từ thuở ấu thời trong đó đứa trẻ hoà lẫn với mẹ nó.
Trong cuộc hòa lẫn này, chúng ta cũng kinh nghiệm lại cảm thức toàn năng mà chúng ta đã phải giũ bỏ trên hành trình bước ra khỏi tuổi ấu thơ. Bây giờ thì mọi sự lại trở thành có thể! Liên kết với người ta yêu ta cảm thấy mình có thể vượt qua mọi cản trở, chúng ta tin rằng sức mạnh của tình yêu chúng ta sẽ khuất phục mọi trở lực và làm chúng tiêu tan. Mấy sông mấy núi ta cũng vượt qua được. Tương lai là cả một trời hồng lồng lộng. Những hoang tưởng ấy nơi ta khi ta phải lòng cũng thiết yếu giống với những hoang tưởng hồi ta còn là đứa bé lên hai - một đứa bé nghĩ rằng mình là chúa tể trong gia đình và quyền lực của mình là vô giới hạn.
Như thực tại đã chặn đứng sự hoang tưởng toàn năng của đứa trẻ lên hai, chính thực tại cũng sẽ chặn đứng mối thống nhất vốn đang kỳ thú giữa hai kẻ phải lòng nhau. Sớm hay muộn, do phải đương đầu với những vấn đề của cuộc sống thường ngày, cái tôi của mỗi cá nhân sẽ tự khẳng định trở lại. Chàng muốn ân ái; nàng không muốn. Nàng thích đi xi-nê, chàng thì không. Chàng muốn bỏ tiền vào nhà băng; nàng lại muốn mua một máy rửa chén. Nàng muốn nói về công việc của nàng; chàng thì muốn nói về công việc của chàng. Nàng không thích các bạn của chàng; chàng không thích các bạn của nàng. Thế là cả hai, mỗi người trong riêng cõi lòng mình bắt đầu nhận ra cái thực tế phũ phàng rằng mình và người ấy đã không nên một như mình tưởng, rằng giữa mình và người ấy vẫn còn ngổn ngang những dị biệt về sở thích, về khẩu vị, về các thiên kiến và về nhiều thứ khác... Thế rồi lần lượt, một cách từ từ hay một cách bất thần, các vành đai bản ngã nổi lên sừng sững trở lại. Và một cách từ từ hay bất thần, họ chấm dứt phải lòng. Họ lại trở lại hai cá thể tách biệt. Và chính tại mốc điểm này họ bắt đầu hoặc tháo gỡ mọi ràng buộc quan hệ hoặc bước vào lãnh giới của tình yêu đích thực.
Nói “đích thực”, vì tôi muốn hàm ý rằng cái cảm tưởng mình đang yêu khi mình phải lòng hoàn toàn là một cảm tưởng sai lầm - cái cảm tưởng chủ quan ấy chỉ là một ảo tưởng. Việc khảo sát đầy đủ về tình yêu đích thực sẽ thuộc phần sau trong chương này. Tuy nhiên, khi nói chính lúc hai người hết phải lòng nhau là lúc họ có thể bắt đầu thực sự yêu nhau, tôi muốn nói rằng tình yêu đích thực không hề có dây mơ rễ má nào với một “cảm tưởng đang yêu”. Trái lại, tình yêu đích thực thường xảy ra trong một bối cảnh vắng bóng cảm tưởng yêu, khi mà chúng ta có thể hành động một cách đầy yêu thương cho dẫu không cảm thấy yêu chi cả. Dựa theo định nghĩa tình yêu mà chúng ta đưa ra ngay từ đầu, thì kinh nghiệm phải lòng không phải là tình yêu đích thực vì một số lý do như sau: Phải lòng không phải là một hành động của ý chí. Nó không phải là một sự chọn lựa có ý thức. Dù bạn có muốn và cố gắng phải lòng bạn vẫn không phải lòng được. Ngược lại, sự phải lòng chụp lấy bạn vào lúc bạn không hề cố tìm kiếm nó, thậm chí vào lúc chẳng thuận tiện tí nào. Xem ra chúng ta phải lòng một đối tượng không xứng đôi với mình cũng dễ như phải lòng một đối tượng xứng đôi vừa lứa.
Thật vậy, dù có thể chúng ta không thích hay không ngưỡng mộ đối tượng mà mình đam mê; thì đàng khác, dẫu có cố mấy đi nữa chúng ta vẫn khó có thể phải lòng một người mà mình kính trọng sâu sắc và là người mà mình mong muốn có mối tương quan mật thiết thâm sâu. Nói thế không có nghĩa rằng sự phải lòng không thể được kiểm soát và khống chế bởi quy phạm. Chẳng hạn, đành rằng các bác sĩ tâm thần thường phải lòng các bệnh nhân, cũng như các bệnh nhân thường phải lòng họ, thế nhưng vì bổn phận và vai trò của họ đối với bệnh nhân, họ thường có thể chặn đứng được sự sụp đổ các vành đai bản ngã nơi mình và chấm dứt những cảm xúc lãng mạn đối với con bệnh của họ. Cuộc đấu tranh ấy có thể rất ác liệt và đòi hỏi nhiều bản lĩnh. Nhưng dù sao, quy phạm và ý chí chỉ có thể kiểm soát sự phải lòng thôi, chứ không thể tạo ra sự phải lòng. Chúng ta có thể chọn cách này hay cách khác để phản ứng đối với hiện tượng phải lòng xảy ra nơi mình; không ai có thể chọn lựa chính sự phải lòng ấy.
Thứ đến, phải lòng không phải là một sự mở rộng các giới hạn hay các vành đai bản ngã; nó chỉ là một sự sụp đổ tạm thời và một phần các vành đai ấy thôi. Việc mở rộng những giới hạn của mình luôn đòi ta phải có nỗ lực; còn phải lòng thì chẳng cần chút nỗ lực nào cả. Những kẻ lười lĩnh và phóng túng cũng dễ phải lòng y như những người cần mẫn và giầu nghị lực. Một khi những khoảnh khắc “huy hoàng” của sự phải lòng đã trôi qua và các vành đai bản ngã đã tái lập lại, người ta có thể chấm dứt được ảo tưởng nhưng thường chẳng thêm được kinh nghiệm. Còn khi các giới hạn được người ta mở rộng ra, chúng thường có quán tính mở ra, mở ra thêm nữa. Tình yêu đích thực sẽ làm phong phú hóa kinh nghiệm của người ta; phải lòng thì không thế.
Phải lòng cũng không có mấy liên quan đến động cơ thúc đẩy phát triển tinh thần của người ta. Nếu khi phải lòng chúng ta có mục đích gì thì đấy là ta muốn chấm dứt nỗi cô đơn của riêng mình, và có lẽ để được vậy chúng ta nghĩ đến việc tiến tới kết hôn. Chắc chắn là khi ấy chúng ta không quan tâm tới việc phát triển nhân linh. Thật vậy bao lâu còn ở trong tình trạng phải lòng, chúng ta còn cảm thấy rằng mình đã tới đích, rằng mọi tầm cao đã được chinh phục, rằng mình chẳng cần tiến lên thêm và đâu còn chỗ nào cao hơn nữa để mà đi lên! Chúng ta không cảm thấy nhu cầu phát triển, chúng ta hoàn toàn thỏa mãn với vị trí và tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta đã về đến bến bình an. Đồng thời ta cũng không thấy nhu cầu phát triển tinh thần đối với người mà ta phải lòng. Trái lại, ta cho rằng nàng (hay chàng) như vậy là đã hoàn hảo. Ví như có nhận ra khuyết điểm nào của nàng (hay chàng), ta cảm thấy đó chỉ là chuyện vặt vãnh hoặc thậm chí “dễ thương”, hoặc khuyết điểm ấy càng tôn thêm vẻ quyến rũ của nàng (hay chàng).
Nếu phải lòng không phải là tình yêu, vậy thì nó là cái gì nếu không phải chỉ là một sự sụp đổ tạm thời và một phần các vành đai bản ngã? Tôi không biết. Chỉ biết rằng yếu tố phái tính và tình dục của hiện tượng này khiến tôi hồ nghi rằng nó là một yếu tố thuộc bản năng di truyền thúc đẩy người ta kết bạn phối ngẫu. Nói cách khác sự sụp đổ tạm thời các vành đai bản ngã làm nên hiện tượng phải lòng là một cốt cách thâm căn cố đế của con người để trả lời cho những xung năng tính dục bên trong và những kích động tình dục bên ngoài nhằm hậu thuẫn thêm cho khả năng giao phối và kết đôi để bảo đảm sự sinh tồn của giống loài. Hay có thể nói một cách mạnh bạo hơn rằng phải lòng là một trò phỉnh gạt của các gien di truyền trong ta làm cho nhận thức của ta bị lạc hướng để gài ta vào hôn nhân. Thường thì trò lừa này chẳng trót lọt, vì lý do này hay lý do khác - chẳng hạn khi đó là những xung năng và kích động tình dục đồng tình luyến ái hoặc khi có những áp lực khác xen vào ngáng trở cuộc kết đôi (ví dụ: sự can thiệp của cha mẹ, sự yếu nhược tâm thần những trách nhiệm mà đương sự đang đảm nhận hay chính bản lĩnh chín chắn của đương sự). Vả chăng, nếu không có trò phỉnh gạt này nếu không có nỗi hoài vọng hoang tưởng và tạm bợ này về sự hoà lẫn và về khả năng vô hạn mà ta từng có trong tuổi ấu thời, thì rất có thể nhiều người trong chúng ta - dù đang sống đời hôn nhân hạnh phúc hay bất hạnh - đã không đủ can đảm để nói lên những lời cam kết vốn đã biến ta thành vợ hay thành chồng.
THẦN THOẠI TÌNH YÊU LÃNG MẠN
Để phục vụ hiệu quả cho việc gài bẫy chúng ta vào hôn nhân, có lẽ một trong những đặc điểm của cảm nghiệm phải lòng chính là ảo tưởng rằng cảm nghiệm ấy sẽ kéo dài mãi mãi. Trong nền văn hóa của chúng ta, ảo tưởng này được hậu thuẫn bởi thần thoại rất phổ biến về tình yêu lãng mạn. Thần thoại này bắt rễ từ những chuyện thần tiên mà ta rất ưa thích hồi còn thơ bé - trong đó chàng hoàng tử và nàng công chúa sau khi nên vợ nên chồng đã sống hạnh phúc với nhau mãi mãi. Thần thoại tình yêu lãng mạn bảo với chúng ta rằng trên đời này mỗi chàng trai đều có một công chúa của lòng mình - và ngược lại, mỗi cô gái đều được dàn xếp sẵn cho một chàng hoàng tử. Hơn nữa, thần thoại ấy cũng muốn nói rằng chỉ có một nàng cho mỗi chàng và chỉ có một chàng cho mỗi nàng thôi - và mối tơ hồng đã được se kết sẵn bởi ông tơ bà nguyệt. Khi chúng ta hạnh ngộ người từ muôn kiếp trước ấy, chúng ta bất thần nhận ra ngay - và đó là tiếng sét ái tình (tức sự phải lòng). Thế là loan phụng đã giao duyên; với cuộc tao phùng lý tưởng này thì không còn ngờ gì nữa, tôi và người ấy sẽ mãi mãi có thể thoả mãn nhau, và sẽ sống hạnh phúc thuận vợ thuận chồng cho đến răng long tóc bạc. Thế nhưng, nếu rồi xảy đến lúc nhận ra rằng người ấy và tôi không đáp ứng được các nhu cầu của nhau, những bất đồng xảy ra và tiếng sét ái tình bỗng tan loãng mất hút trong thinh không... thì tôi cho rằng rõ ràng mình đã phạm một sai lầm, rằng mình đã đọc sai tín hiệu của ông tơ bà nguyệt, rằng mình đã bắt nhầm tần số, rằng cái mình tưởng là tình yêu ấy thực sự không phải là tình yêu “thật”, và rằng sự thể đã như vậy thì chẳng còn làm gì được hơn là cam chịu sống tiếp đời hôn nhân bất hạnh hoặc làm giấy li dị.
Đành rằng có những thần thoại thật hàm súc ý nghĩa và bất hủ, vì chúng trình bày và chất chứa những chân lý phổ quát ngàn đời, thế nhưng phải nhận rằng huyền thoại tình yêu lãng mạn là một sự bịa đặt khủng khiếp. Có lẽ sự bịa đặt ấy cần thiết ở chỗ nó hậu thuẫn cho sự sống còn của giống loài qua việc ủng hộ và dường như biện minh cho sự phải lòng - vốn là thứ cảm nghiệm gài bẫy chúng ta vào hôn nhân. Nhưng trong tư cách là một bác sĩ tâm thần, tôi thường xuyên phải day dứt trong lòng vì chứng kiến những éo le và phiền toái mà thần thoại này có phần trách nhiệm. Hàng triệu người đang phung phí biết bao năng lực trong cố gắng điên rồ và vô vọng nhằm ép cái thực của đời sống mình phải am hợp với cái phi thực của thần thoại ấy. Như bà A đang quị lụy chồng mình một cách vô lý vì mang mặc cảm phạm tội. Bà nói: “Lúc cưới nhau, tôi đã không thực sự yêu chồng tôi. Tôi chỉ giả vờ yêu thôi. Có lẽ ông ấy đã bị tôi lừa vào cuộc hôn nhân này. Vì thế giờ đây tôi không có quyền phàn nàn gì về ông ấy cả. Ông ấy có cư xử thế nào thì tôi cũng phải ráng chịu đựng thôi”.
Ông B thì tiếc rẻ: “Tôi rất ân hận vì hồi ấy đã không cưới cô C. Cô ấy và tôi mà nên vợ chồng thì cuộc hôn nhân sẽ tuyệt vời biết bao. Chỉ tại hồi ấy tôi không cảm thấy mình yêu cô ấy hết lòng và vì thế tôi đã không hoàn toàn tin chắc rằng cô ấy chính là nữ hoàng của lòng tôi.
Thật đáng tiếc!”.
Còn bà D, sau hai năm kết hôn, bỗng dưng suy sụp tinh thần trầm trọng mà không hề có một nguyên nhân rõ ràng... Bà tìm đến chuyên viên tâm lý trị liệu và than thở: “Thật tôi không hiểu vì sao. Tôi hầu như có đủ mọi thứ mình cần, kể cả một cuộc hôn nhân mà nhiều người khác phải thèm muốn. Thế nhưng tôi vẫn thấy có gì đó không ổn”. Thế rồi chỉ ít tháng sau, bà đã nhìn nhận sự thực rằng tiếng sét ái tình đã chết lịm trong lòng bà và - quan trọng hơn - bà hiểu rằng điều đó không có nghĩa là bà đã phạm một sai lầm khủng khiếp.
Trường hợp ông E, cũng kết hôn được hai năm, bắt đầu cảm thấy những cơn nhức đầu như búa bổ thường xảy đến vào buổi tối, nhưng ông không cho rằng những cơn đau đầu ấy có nguồn gốc trong tâm lý. Ông nói: “Đời sống gia đình của tôi khá tốt. Tôi vẫn yêu thương vợ mình như hồi mới cưới. Nàng là tất cả những gì tôi tha thiết nâng niu”. Song những cơn nhức đầu ấy vẫn tiếp tục hành hạ ông suốt một năm nữa - cho đến khi ông nhìn nhận rằng: “Nàng đã làm tôi khốn đốn khi mua sắm đủ thứ mà không hề cân nhắc đến số tiền lương của tôi”. Và ông bắt đầu có được bản lĩnh để tỏ thái độ với lối tiêu pha bừa bãi của vợ mình. Ông và bà F không cảm thấy còn yêu nhau lãng mạn và say đắm như buổi đầu nữa; họ không giấu nhau điều đó - và rồi hai người bắt đầu hành khổ nhau bằng sự lén lút theo đuổi những cuộc tình vụng trộm. Cả hai không hề nhận ra rằng sự chấm dứt “yêu nhau kiểu lãng mạn” ấy hoàn toàn có thể là một khởi đầu cho cuộc hôn nhân đích thực thay vì là một dấu chấm cáo chung. Thậm chí có nhiều trường hợp, đôi vợ chồng khi biết rằng tình yêu du dương trăng mật nơi họ không còn nữa, họ vẫn tiếp tục đảm nhận mối quan hệ với kỳ vọng rằng mình có thể xoay xở để kéo thần thoại ngọt ngào ấy về lại với mình. Họ nói: “Chúng tôi không còn tình cảm lãng mạn đối với nhau, nhưng chúng tôi sẽ cố làm ra vẻ như vẫn còn yêu nhau nồng nàn và rồi biết đâu chúng tôi lại có thể yêu nhau bay bổng như ngày ấy”. Những đôi vợ chồng này xem sự thuận thảo với nhau là điều quan trọng bậc nhất. Khi họ gia nhập những nhóm trị liệu tập thể dành cho các cặp vợ chồng, họ ngồi với nhau, nói tốt về nhau, bào chữa cho những lỗi lầm của nhau, và tìm cách để tỏ cho các cặp khác thấy rằng họ là một “mặt trận thống nhất”. Họ tin rằng sự liên kết ấy là dấu chỉ chứng tỏ họ có một cuộc hôn nhân khá lành mạnh và là một điều kiện cho phép họ cải thiện hơn nữa cuộc hôn nhân của mình. Song sớm hay muộn - (và thường là rất sớm) - chúng tôi phải nói với các cặp như vậy rằng họ không nên “tâm đầu ý hợp” với nhau quá như vậy. Nghĩa là họ cần phải tạo một khoảng cách tâm lý giữa nhau trước khi có thể mong giải quyết các vấn đề của họ một cách hữu hiệu. Đôi khi thậm chí cần phải tạo một khoảng cách về thể lý nữa; nghĩa là yêu cầu mỗi đôi vợ chồng ngồi xa nhau ra trong các cuộc trao đổi vòng tròn tập thể. Rất thường xuyên, chúng tôi phải ngăn chặn họ biện hộ cho nhau và bênh vực nhau để chống lại sự cật vấn của nhóm: “Hãy để Mary tự giải thích lấy, John” và “John có thể tự biện minh cho anh ấy, Mary”... Đó là những nhắc nhở mà chúng tôi phải lặp đi lặp lại hoài. Cuối cùng, nếu họ kiên trì theo đuổi tiến trình trị liệu, tất cả họ đều nhận ra rằng chỉ khi nào mỗi người thật sự chấp nhận bản ngã riêng của mình và bản ngã của người bạn đời mình - và chấp nhận sự cách biệt - thì họ mới có được nền tảng để xây dựng một cuộc hôn nhân trưởng thành và vun quén được tình yêu đích thực.
NHỮNG VÀNH ĐAI BẢN NGÃ, CHUYỆN CÒN DÀI...
Bảo rằng kinh nghiệm phải lòng là một thứ ảo tưởng không có dây mơ rễ má gì với tình yêu thực, tưởng cũng cần phải đề cập đến sự kiện rằng quả thực phải lòng có nhiều điểm rất giống với tình yêu thực. Chính tại những điểm rất giống ấy mà nhiều người trong chúng ta mới lầm tưởng phải lòng là tình yêu.
Tình yêu thực cũng liên quan đến các vành đai bản ngã, vì khi yêu thực, người ta mở rộng các giới hạn của mình ra. Các giới hạn của một người chính là những vành đai bản ngã của người ấy. Khi ta yêu thực, ta mở rộng các giới hạn của mình bằng cách vươn tới người mà ta yêu; ta muốn giúp người ấy lớn lên. Để ta có thể làm được điều này, trước hết đối tượng ấy phải được ta yêu - nói cách khác - ta phải bị thu hút về phía người ấy, ta phải liên đới và hội nhập vào một đối tượng ở ngoài bản thân ta, ở bên ngoài vành đai bản ngã của ta. Các nhà tâm thần học gọi quá trình thu hút, can dự và hội nhập này là “quyến luyến”: ta “quyến luyến” người ta yêu. Nhưng khi chúng ta quyến luyến một đối tượng bên ngoài chính mình thì, xét về mặt tâm lý, ta cũng đang kết nạp đối tượng ấy vào trong chính mình.
Ví dụ, ta hãy xem một người nọ làm vườn để tiêu khiển. Đó là một thú giải trí vừa thú vị vừa tốn công tốn của. Anh ta thích làm vườn.
Khu vườn của anh có một ý nghĩa rất lớn đối với anh. Anh quyến luyến khu vườn ấy. Anh thấy mình bị khu vườn thu hút, anh bỏ thời giờ và công sức của anh ra cho khu vườn, anh gắn bó với nó đến nỗi anh có thể dậy rất sớm vào buổi sáng để ra thăm vườn, anh có thể bỏ một chuyến đi xa vì không muốn bỏ bê nó; thậm chí anh có thể vì quá mê khu vườn mà bỏ bê chính vợ con anh. Trong quá trình quyến luyến ấy và trong nỗ lực chăm chút cho những cánh hoa cành lá, anh học hỏi được rất nhiều. Anh hiểu biết nhiều hơn về công việc làm vườn - về đất, về phân, về sự đâm rễ, sự nảy chồi... Và anh biết đặc biệt về khu vườn riêng của anh: Anh biết lịch sử của nó, những loại cây cỏ được trồng trong đó, anh biết quy hoạch chi tiết cho nó, biết những vấn đề của nó đang cần được giải quyết, và thậm chí anh biết cả tương lai của nó nữa. Dẫu thực tế là khu vườn đang tồn tại bên ngoài anh, một cách nào đó nó cũng đang tồn tại bên trong anh - qua sự quyến luyến của anh đối với nó. Nhận thức của anh về khu vườn và ý nghĩa của khu vườn ấy đối với anh đã trở thành một phần của anh, một phần của tính cách anh, một phần của lịch sử đời anh, một phần của sự khôn ngoan của anh. Xuyên qua tình cảm quyến luyến đối với khu vườn, anh đã thực sự sát nhập khu vườn vào trong con người anh - và với sự sát nhập ấy, bản thân anh được phong phú hóa và các vành đai giới hạn của anh được mở rộng ra.
Như vậy, khi người ta yêu và - do quyến luyến - mở rộng các giới hạn của mình ra, họ dần dần được phong phú hơn, họ đang hội nhập thế giới bên ngoài mình vào trong chính mình, họ đang lớn lên, các vành đai bản ngã của họ giãn xa ra hơn và trở nên mỏng manh hơn.
Cứ vậy, hễ chúng ta càng mở rộng mình ra nhiều hơn và lâu hơn, chúng ta càng yêu nhiều hơn, và sự phân biệt giữa bản thân ta và thế giới sẽ càng trở nên mờ nhạt hơn. Chúng ta trở thành đồng hóa với thế giới bên ngoài ta. Và khi các vành đai bản ngã của ta nhạt mờ đi, chúng ta bắt đầu cảm nghiệm thêm về niềm vui sướng mà người ta vẫn có khi các vành đai bản ngã sụp đổ chỉ một phần trong hiện tượng phải lòng. Chỉ khác một điều là thay vì hòa lẫn với một đối tượng nào đó một cách tạm bợ và một cách vu vơ, chúng ta - trong tình yêu thực - sẽ hòa lẫn một cách vừa thực sự vừa lâu bền hơn với một thế giới rộng hơn rất nhiều. Một mối “hiệp nhất thần nhiệm” với toàn thể thế giới xung quanh có thể được hình thành. Niềm hoan lạc kèm theo sự hiệp nhất này có lẽ nhẹ ngàng và êm dịu hơn so với niềm hoan lạc trong sự phải lòng, nhưng nó ổn định và vững bền hơn nhiều và nhất là cuối cùng nó đem lại sự khoan khoái chứ không phải là sự hụt hẫng. Đó là sự khác biệt giữa niềm phấn khích tột đỉnh trong cảm nghiệm phải lòng với điều mà Abraham Maslow gọi là “plateau experience” (có ý chỉ một cảm nghiệm vừa thăng hoa vừa tỏa rộng) trong tình yêu đích thực. Người ta không bất thần vút lên tít trên cao để rồi rớt “bịch” xuống lại; trái lại, người ta đạt được tầm cao và giữ được tầm cao đó.
Thật dễ thấy rõ rằng hành động tính dục và tình yêu - dù có thể xảy ra đồng thời - vẫn thường không dính kết nhau, bởi vì tự căn bản đó là hai hiện tượng tách biệt. Cái hành vi vẫn được nhiều người gọi là làm tình ( making love) ấy - tự bản thân nó - không phải là một việc làm của tình yêu! Dù sao, niềm khoái cảm của giao hợp - nhất là ở mức khoái cảm tột đỉnh (ngay cả trong hành vi thủ dâm) - cũng là một khoái cảm gắn liền với một mức sụp đổ nào đó của các vành đai của bản ngã và niềm hoan lạc mà người ta đạt được. Chính nhờ sự sụp đổ ấy của các vành đai bản ngã mà ta có thể thốt lên trong khoảnh khắc tột đỉnh ấy rằng “anh yêu em” ngay cả với một cô gái điếm... để rồi vài chốc lát sau đó, khi các vành đai bản ngã tái lập trở lại, chúng ta chẳng thấy chút cảm xúc gì hay chút gắn bó gì với chính con người ấy. Nói thế không hề có nghĩa rằng niềm hoan lạc của khoái cảm tột đỉnh không thể được đẩy lên cao bằng cách san sẻ niềm hoan lạc ấy với người ta yêu. Vì thực sự, điều ấy hoàn toàn có thể.
Điều đáng ghi nhận là dù không có người phối ngẫu hay dù phối ngẫu với bất cứ người nào thì sự sụp đổ các vành đai bản ngã diễn ra với khoái cảm tột đỉnh cũng đều có tính toàn diện. Trong tích tắc ấy người ta hầu như hoàn toàn quên mình là ai, người ta mất hẳn lằn ranh bản ngã; mất ý niệm về thời gian và không gian, người ta lạc ra ngoài chính mình, người ta đang trôi đi... Trong tích tắc ấy, người ta nhập thành một với vũ trụ. Song, chỉ một tích tắc thôi.
Khi mô tả mối hiệp nhất bền vững với vũ trụ (trong tình yêu đích thực, dĩ nhiên) để so sánh với sự hiệp nhất có tính khoảnh khắc của khoái cảm tột đỉnh, tôi đã sử dụng cụm từ “mối hiệp nhất thần nhiệm” . Thần nhiệm - hay thần bí - chủ yếu là niềm tin rằng thực tại là một, là nhất tính chứ không là đa tính. Cách nhận hiểu thường tình của chúng ta về vũ trụ như một mớ những thứ rời rạc nhau: trăng sao, cây cỏ, chim chóc, nhà cửa, và chính chúng ta... tất cả đều tách biệt nhau bởi những lằn phân ranh nhất định, các nhà thần bí cho rằng đó là một ngộ nhận, một ảo tưởng. Ngộ nhận ấy, thế giới ảo tưởng mà đa số chúng ta cứ ngỡ là thực ấy, được các tín đồ Ấn giáo và Phật giáo gọi là “Maya” (ảo pháp). Tư tưởng của hai tôn giáo này, cũng như nhiều nhà thần bí khác, chủ trương rằng người ta chỉ có thể biết thực tại đích thực nhờ cảm nghiệm được nhất tính xuyên qua việc phá bỏ các vành đai bản ngã. Bao lâu ta còn tiếp tục thấy mình là một cái gì rời ra, tách biệt khỏi những gì xung quanh mình - dù xét khía cạnh nào - thì bấy lâu ta không thể nào thật sự nhận ra mối hiệp nhất của vũ trụ. Vì thế, các tín đồ Ấn giáo và Phật giáo thường khẳng định rằng trẻ em biết được thực tại (khi chúng chưa hình thành các vành đai bản ngã), song người lớn thì không. Một số người thậm chí cho rằng nẻo đường tiến tới giác ngộ - tức hiểu biết nhất tính của thực tại - đòi người ta phải thoái lui lại và phải làm cho mình nên như đứa trẻ nhỏ. Đây có thể là một chủ trương đầy cám dỗ và nguy hiểm đối với một số thanh niên và người lớn, khiến họ không chuẩn bị để đảm nhận những trách nhiệm của một người trưởng thành - những trách nhiệm xem chừng làm họ khiếp sợ và đòi hỏi quá khả năng của họ. Họ nghĩ: “Cần gì mình phải dính vào những thứ rắc rối ấy. Mình chẳng cần phải trở nên người lớn và mình có thể nên thánh bằng cách rút ra khỏi những bổn phận của người lớn”. Kỳ thực, khi họ làm thế, cái mà họ đạt được chỉ là tình trạng tự cô lập mình trong hoang tưởng (tức chứng Schizophrenia) chứ không phải là sự thánh thiện.
Phần lớn các nhà thần bí đều hiểu được sự thật mà chúng ta đã đề cập đến ở cuối chương trước khi nói về quy phạm: Chúng ta phải chiếm hữu hay đạt được một cái gì đó rồi ta mới có thể bỏ nó - mà đồng thời vẫn khẳng định được năng lực và trình độ của mình. Một đứa trẻ chưa hình thành các vành đai bản ngã có thể gần gũi với thực tại hơn cha mẹ nó, nhưng nó không thể sống còn được nếu không được cha mẹ nó săn sóc, và nó cũng không thể truyền đạt được “sự khôn ngoan” của nó. Nẻo đường nên thánh là nẻo đường đi qua sự trưởng thành. Không có đường ngang lối tắt nào nhanh chóng và dễ dãi ở đây. Các vành đai bản ngã phải được xây lên rồi mới được phá đi. Một cá thể tính phải được hình thành trước khi nói đến chuyện vượt qua nó. Ta phải tìm thấy cái bản ngã của mình trước đã, rồi mới có thể đánh mất nó được. Trong sự phải lòng, trong hành vi giao hợp, và trong khi sử dụng một số dược chất gây phấn khích... chúng ta rút ra khỏi vành đai bản ngã trong khoảnh khắc và chừng như thấy được một thoáng Niết bàn. Song đó không phải là chính Niết bàn. Niết bàn, hay sự giác ngộ vĩnh cửu, hay sự trưởng thành tâm linh đích thực... chỉ có thể đạt đến bằng con đường kiên thủ tập tành yêu thương đích thực.
Như vậy, sự sụp đổ tạm thời của các vành đai bản ngã trong hiện tượng phải lòng và trong hành vi giao hợp không chỉ đưa ta đến chỗ ràng buộc với người khác - từ đó tình yêu đích thực có thể bắt đầu - mà còn cho ta nếm cảm trước (và do đó khích lệ ta hướng tới) niềm hoan lạc thần nhiệm và bền vững hơn nhiều - niềm hoan lạc mà ta có thể cảm nghiệm được sau một đời yêu thương. Thế thì, nếu phải lòng tự nó không phải là tình yêu, nó cũng là một phần nằm trong kế đồ huyền nhiệm và tuyệt vời của tình yêu.
Ngộ nhận thường tình thứ hai về tình yêu là cho rằng lệ thuộc là tình yêu. Loại ngộ nhận này các bác sĩ tâm thần rất thường xuyên gặp nơi các con bệnh của mình. Dấu chỉ thường xuyên nhất là người ta chán nản, buông xuôi, tuyệt vọng hoặc thậm chí tìm cách tự tử vì bị chia cách với người mình yêu hoặc bị người ấy phũ phàng phản bội. Những câu nói thường được nghe thấy là: “Tôi không thiết sống nữa. Tôi không thể sống nếu không có chồng (hay vợ, người yêu...) của tôi. Tôi yêu anh ấy (hay cô ấy) lắm”. Là bác sĩ tâm thần, trong những ca như vậy tôi thường trả lời: “Bạn lầm rồi, bạn không yêu chồng (hay vợ...) bạn đâu!” Và bệnh nhân sẽ bực mình: “Ông muốn nói gì vậy? Tôi đã bảo với ông rằng tôi không thể sống thiếu chàng (hay nàng)”. Đến đây, tôi giải thích: “Cái mà bạn nói đó là một loại ký sinh trùng, chứ không phải tình yêu. Khi bạn cần một người khác để sống còn thì bạn là một ký sinh trùng sống nhờ vào người ấy. Không có chọn lựa cũng chẳng có tự do gì trong mối quan hệ của bạn. Đó là một nhu cầu đúng hơn là tình yêu. Vì yêu là sự lựa chọn tự do. Hai người yêu nhau chỉ khi họ hoàn toàn có khả năng sống không có nhau - song họ chọn sống với nhau.
Tôi định nghĩa lệ thuộc là tình trạng trong đó người ta luôn cần phải được kẻ khác tích cực quan tâm tới thì mới có thể hành xử thích đáng được. Một người lớn với sức khỏe đầy đủ mà lệ thuộc như thế thì đúng là bệnh hoạn; sự lệ thuộc ấy cho thấy một tâm thần yếu nhược và khiếm khuyết. Song không được nhầm lẫn sự lệ thuộc nói trên với những nhu cầu hay những cảm nghĩ có tính tùy thuộc theo nghĩa thông thường. Bởi vì tất cả chúng ta - từng người và mọi người - đều có những nhu cầu hay những cảm nghĩ tùy thuộc như vậy, ngay cả khi chúng ta cố giả bộ như thể mình không vậy. Ai trong chúng ta cũng thích làm em bé, thích được chìu chuộng, săn sóc, bao bọc bởi những người mạnh mẽ vững vàng hơn mình và hết lòng quan tâm đến mình. Dù mạnh mẽ vững vàng đến đâu, dù đầy ý thức trách nhiệm và vị tha đến đâu, dù đã trưởng thành đến đâu, trong thâm tâm mỗi người vẫn cứ còn nỗi khao khát muốn được kẻ khác quan tâm lo lắng đến mình. Mỗi chúng ta, bất luận tuổi đời chồng chất đến mấy, cũng đều muốn có được ai đó nâng niu săn sóc mình như cha hay mẹ mình. Có điều là đối với phần lớn chúng ta, những niềm khát vọng ấy không quá mãnh liệt đến độ lèo lái cả cuộc sống; ta không tựa vào đó để sống. Một khi những khát vọng ấy nắm quyền kiểm soát và định hình lối sống của người ta, thì chúng không còn là những nhu cầu hay cảm nghĩ có tính tùy thuộc theo nghĩa thông thường nữa - bởi bấy giờ người ta đã lệ thuộc vào chúng thực rồi.
Nói một cách chuyên môn hơn, người có lối sống lệ thuộc như vậy là người bị rối loạn tâm thần, mà tên chẩn đoán là “chứng rối loạn nhân cách tùy thuộc thụ động” (passive dependent personality disorder).
Và đây có lẽ là chứng rối loạn tâm thần được thấy phổ biến nhất.
Người mắc chứng rối loạn này - tức người lệ thuộc thụ động - luôn luôn băn khoăn lo sao cho kẻ khác yêu mình... đến nỗi chẳng còn năng lực đâu để yêu thương kẻ khác. Họ giống như kẻ đói ăn, vồ chụp lấy bất cứ miếng ăn nào trong tầm tay mình, và chẳng bao giờ có được thức ăn của chính mình để mà chia sẻ cho bất cứ ai. Lòng họ cơ hồ trống rỗng, như một cái hố không đáy kêu van người ta lấp đầy - song chẳng bao giờ lấp đầy được. Họ không bao giờ cảm thấy “đầy đủ” hay mãn nguyện. Họ luôn luôn thấy “mình thiếu thốn một cái gì đó”. Họ rất kém khả năng chịu đựng cô đơn. Vì thiếu cảm thức tự túc nên họ cũng không thể có được cảm nhận đích thực về cá thể tính của mình; họ chỉ có thể xác định mình xuyên qua các mối quan hệ của mình mà thôi. Một kỹ thuật viên tổng đài điện thoại ba mươi tuổi nọ đã đến gặp tôi trong tâm trạng hết sức suy sụp vào thời điểm ba ngày sau khi vợ anh bỏ đi - dẫn theo cả hai đứa con. Trước đó chị đã từng hù dọa bỏ anh ba lần, phàn nàn rằng anh là người chồng không chút quan tâm đến vợ con. Mỗi lần chị hù dọa như vậy, anh đều năn nỉ chị tha thứ và hứa sẽ sửa đổi; song chẳng bao giờ anh sửa đổi được quá một ngày - vì vậy lần này chị kiên quyết bỏ đi thật.
Hai đêm liền anh không ngủ được, xao xuyến âu lo; trong ràn rụa nước mắt, anh thực sự tính chuyện tự tử. “Tôi không thể sống mà không có gia đình tôi”, anh thổn thức, “tôi yêu vợ con tôi lắm”.
“Sao kỳ cục vậy?” - tôi hỏi - “anh nói rằng vợ anh có lý khi phàn nàn anh, anh nhìn nhận rằng anh chẳng bao giờ săn sóc vợ mình cả - anh chỉ về nhà lúc nào anh thích, anh chán vợ cả chuyện chăn gối lẫn trong tình cảm, anh thậm chí không chuyện trò với con cái trong nhiều tháng liền, anh không bao giờ chơi với chúng hoặc đưa chúng đi bất cứ đâu. Anh không có quan hệ với bất cứ ai trong gia đình anh, tôi thật không hiểu tại sao anh suy sụp tinh thần đến thế chỉ vì mất một mối quan hệ vốn đã không hề có thật.”
“Ông không thấy sao?”, anh trả lời, “bây giờ tôi chẳng là gì cả. Tôi là dê-rô. Không vợ. Không con. Tôi không biết mình là ai. Cho dẫu tôi hờ hững với vợ con, song tôi vẫn rất yêu vợ thương con. Không có vợ con, tôi chỉ là một con số không”.
Vì nhận thấy anh suy sụp quá nghiêm trọng - do đánh mất cá thể tính mà vợ con anh đã trao cho anh - tôi hẹn sẽ gặp lại anh trong hai ngày nữa, hy vọng lúc ấy anh sẽ nguôi ngoai hơn phần nào. Thế nhưng khi trở lại, anh nhún nhảy đi vào văn phòng tôi, cười toe toét và nói oang oang: “Mọi sự ổn cả rồi, thưa bác sĩ!”
“Anh đã gặp lại vợ con anh rồi à?”, tôi hỏi.
“Ồ, không”, anh trả lời một cách vui vẻ, “Từ hôm đó đến nay tôi chẳng nghe tăm hơi gì về họ. Có điều là tối qua tôi gặp được một cô gái ở quán rượu. Nàng nói nàng rất mến tôi. Nàng cũng đang sống ly thân, như hoàn cảnh của tôi. Chúng tôi đã hẹn gặp lại nhau tối nay.
Tôi cảm thấy mình như một người chết đi sống lại vậy. Có lẽ tôi không cần phải gặp bác sĩ nữa đâu”.
Khả năng thay đổi nhanh như chong chóng kiểu ấy là đặc điểm của những người lệ thuộc thụ động. Xem ra đối với họ, dựa vào ai cũng được - miễn là có người để cho họ dựa. Cá thể tính gì cũng được, miễn là có người ban cho họ một cá thể tính. Bởi đó mà các mối quan hệ của họ, dù có vẻ đầy ly kỳ, vẫn chỉ là những mối quan hệ hết sức nông cạn. Những người lệ thuộc thụ động, do cảm thức mãnh liệt về sự trống rỗng bên trong mình và do lòng khát khao muốn lấp đầy nỗi trống rỗng ấy, sẽ vồ chụp lấy kẻ khác như cọp đói vồ mồi. Một cô gái trẻ, xinh đẹp, thông minh và khá hồng hào nọ, từ năm mười bảy đến năm hai mươi mốt tuổi, đã gần như liên tục có quan hệ tình dục với những anh chàng thua kém cô cả trí thức lẫn tài năng. Cô thất vọng từ hết cuộc tình này đến cuộc tình khác. Vấn đề nằm ở chỗ cô không đủ kiên nhẫn đợi chờ để tìm cho mình một người đàn ông thích hợp, hoặc ngay cả để chọn lựa trong số những anh chàng đang vây quanh sẵn trong tầm tay cô. Chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi chia tay với một cuộc tình, cô “lượm” ngay anh chàng đầu tiên nào đó mà cô gặp trong một quán rượu - để rồi trong buổi trị liệu tâm lý sau đó, cô sẽ ca lại bài ca tán tụng chàng: “Thưa bác sĩ, tôi cũng biết là anh ấy thất nghiệp và nhậu nhẹt hơi nhiều, nhưng anh ấy rất tài hoa. Anh ấy chìu chuộng săn sóc tôi. Chắc lần này tôi đã gặp duyên kỳ ngộ”.
Nhưng duyên kỳ ngộ ấy cũng chẳng mấy lâu - không chỉ bởi vì cô gái đã chọn lựa nông nổi, mà còn bởi vì cô lại bắt đầu bám chặt lấy chàng, đòi hỏi chàng hết bằng chứng này đến bằng chứng khác để minh chứng rằng chàng yêu cô. Cô đeo riết chàng, không chịu buông ra cho chàng được “thở”. “Chỉ tại vì em quá yêu anh”, cô nói với chàng như thế. Nhưng, sớm hay muộn, anh chàng sẽ cảm thấy thật gò bó và ngột ngạt. “Tình yêu” của nàng đã nhốt chàng kẹt cứng, không có chỗ cựa quậy. Thế là chàng giận dữ vùng lên đòi tự do! Và cuộc tình giữa hai người chấm dứt. Ngày hôm sau, cô gái lại bắt đầu một mối tình mới cũng y hệt như thế. Nhân vật phụ nữ này đã phải mất ba năm trị liệu tâm lý mới phá được cái vòng luẩn quẩn ấy. Trong quá trình đó, cô dần dần học biết trân trọng trí thông minh và năng lực của bản thân cô, học biết nhận hiểu nỗi trống rỗng và cơn khát khao nóng bỏng nơi mình và phân biệt nó với tình yêu đích thực. Cô cũng nhận ra chính nỗi khát khao nơi mình đã xô đẩy mình đi vào và đeo bám các mối quan hệ đầy tai họa ấy như thế nào. Và cô hiểu rằng mình cần phải kiểm soát và chế ngự nỗi khát khao ấy nếu muốn phát huy được các năng lực tiềm tàng của bản thân.
Bệnh lý nói trên được gọi là lệ thuộc và thụ động, bởi vì những người mắc chứng rối loạn này chỉ bận tâm tìm kiếm những gì mà kẻ khác làm cho mình thay vì cố gắng làm những gì mình có thể làm.
Lần nọ, làm việc với một nhóm năm bệnh nhân độc thân - tất cả đều mắc chứng lệ thuộc thụ động - tôi yêu cầu họ nêu rõ các mục tiêu mà họ đang nhắm đến trong cuộc sống, cụ thể là họ muốn đời sống họ sẽ như thế nào trong năm năm nữa. Cách này hay cách khác, câu trả lời của mỗi người trong họ cũng chung quy là: “tôi muốn mình sẽ được kết hôn với một người thực sự quan tâm săn sóc mình”. Chẳng có ai đề cập đến chuyện dấn thân vào một nghề nghiệp khó khăn, hoặc sáng tác một tác phẩm nghệ thuật, hoặc đảm nhận một hoạt động xã hội hay một vị thế nào đó có tính đòi hỏi mình yêu thương và phục vụ cao độ. Ý niệm về sự nỗ lực không có chỗ đứng trong những ước mơ của họ. Họ chỉ ôm ấp một viễn cảnh trong đó họ thuần túy đón nhận sự quan tâm săn sóc - còn chính mình thì khỏe re, chẳng phải làm chi cả. Tôi đã nói với năm bệnh nhân này điều mà tôi vẫn thường nói với nhiều người khác: “Nếu mục tiêu của các anh là được yêu, các anh sẽ chẳng bao giờ đạt được nó. Cách duy nhất để bảo đảm mình được yêu, đó là các anh phải trở thành con người xứng đáng được yêu. Nhưng các anh sẽ không xứng đáng được yêu bao lâu các anh chỉ nuôi dưỡng có một mục tiêu chủ yếu trong đời là được người ta yêu thương chăm sóc mình”. Nói thế không hề có ý khẳng định rằng những người lệ thuộc thụ động không bao giờ làm bất cứ gì cho kẻ khác. Có điều, nếu họ có làm gì cho ai cũng chỉ nhằm để củng cố mối gắn bó với người ấy và qua đó đảm bảo mình sẽ nhận được sự quan tâm săn sóc của người ấy. Chính vì thế, thật là thiên nan vạn nan để họ làm cái động tác “hòn đất ném đi” nếu như họ thấy rõ rằng không có mấy hy vọng sẽ được “hòn chì ném lại”. Tất cả năm thành viên trong nhóm nói trên đều cảm thấy cực kỳ cam go chuyện mua một ngôi nhà, hoặc sống tách rời khỏi cha mẹ, hoặc bỏ một chỗ làm cũ mà mình hoàn toàn không hứng thú với công việc, ngay cả chuyện làm quen với một môn giải trí nào đó cũng cực kỳ cam go.
Trong đời sống vợ chồng, thường có một sự phân công giữa hai người - và sự phân công này xem ra hữu ích. Công việc nấu nướng, quét dọn, đi chợ, săn sóc con cái... thuộc về người phụ nữ. Còn người đàn ông thì lo làm ăn, cung cấp tài chánh, cắt cỏ ngoài vườn, sửa sang những đồ đạc hỏng hóc. Song lúc này lúc khác, nhiều đôi vợ chồng bỗng dưng hoán đổi vai trò với nhau: anh chồng thỉnh thoảng nấu một bữa cơm, hằng tuần dành ra một ngày chăm sóc con cái, tặng cho vợ một bất ngờ thú vị bằng cách cầm chổi quét dọn sạch sẽ nhà cửa. Chị vợ có thể nhận một việc làm bán thời gian, dành lấy phần việc xén cỏ ngoài vườn trong ngày sinh nhật của chồng, hoặc xung phong gánh vác mọi chi phí của gia đình trong ít lâu. Hai người có thể xem việc hoán đổi vai trò này như một trò chơi làm cho cuộc sống hôn nhân của họ thêm phong phú và ý vị. Nhưng trong trò chơi hoán đổi ấy còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều - dù chính đương sự có thể không ý thức - đó là, khi thỉnh thoảng đổi vai cho nhau như thế, hai người đang làm giảm thiểu mức độ lệ thuộc giữa họ với nhau. Có thể nói, mỗi người trong họ đang tập tành để sống còn được trong trường hợp người kia mất đi. Thế nhưng, đối với những người mắc chứng rối loạn lệ thuộc thụ động, cái chết của vợ (hay chồng) mình là một viễn ảnh hãi hùng đến nỗi họ không dám nghĩ đến nó và không dám chuẩn bị để đón nhận nó. Họ không dám giảm thiểu mức lệ thuộc vào nhau và không dám cho phép vợ (hay chồng) mình có được sự tự do nhiều hơn. Như vậy, có thể ghi nhận một trong những đặc điểm ứng xử của người lệ thuộc thụ động trong đời sống hôn nhân, đó là họ phân công vai trò của vợ và chồng một cách cứng nhắc - và họ tìm cách để gia tăng hơn là để giảm thiểu mức độ lệ thuộc lẫn nhau, nhằm biến cuộc hôn nhân của họ thành một cái bẫy nhốt cứng hết đường cựa quậy. Trong khi làm như thế nhân danh tình yêu (kỳ thực đây chỉ là sự lệ thuộc chứ không phải tình yêu) - họ đang đè bẹp tự do và phẩm cách của chính mình lẫn của người bạn đời của họ. Trong quá trình như vậy, những người vợ (hay chồng) mắc chứng lệ thuộc thụ động sẽ đánh mất cả những khiếu năng mà họ đã đạt được trước khi kết hôn. Một ví dụ khá phổ biến minh họa điều vừa nói, đó là hiện tượng nhiều người vợ bỗng dưng “không thể” lái xe được nữa. Trong một số trường hợp, cô vợ chấm dứt lái xe không vì lý do gì cụ thể cả. Một số trường hợp khác, người vợ tuyên bố không rờ tới tay lái nữa vì sợ gặp tai nạn; số là ít lâu sau khi lấy chồng, chị bị một va quẹt nhỏ khi đang chạy xe, thế là chị phóng đại nỗi lo sợ ấy lên và quyết định từ nay khoán trắng nhiệm vụ lái xe cho chồng. Do nỗi ám ảnh đầy tưởng tượng ấy của chị, từ nay chị gần như hoàn toàn lệ thuộc vào anh - và anh bị buộc chặt vào vai trò làm tài xế cho chị, như bóng với hình. Thế là từ nay, anh chồng phải đưa vợ đi mua sắm - hoặc anh phải đảm nhận luôn cả mọi việc mua sắm. Vì tình trạng này thường làm thỏa mãn nhu cầu lệ thuộc vào nhau giữa hai người nên đa số các cặp vợ chồng chẳng bao giờ nhận thấy đó là tình trạng bệnh hoạn hoặc chí ít là một vấn đề cần giải quyết. Một chủ nhà băng nọ, vốn rất thông minh tinh tế, cho tôi biết vợ ông - một phụ nữ bốn mươi sáu tuổi - bỗng dưng từ chối không lái xe nữa vì một mối “ám ảnh” khủng khiếp nào đó. Tôi giải thích cho ông ta rằng rất có thể vợ ông có vấn đề về mặt tâm thần. Ông phản đối: “Ồ không đâu, bác sĩ của bà ấy nói rằng đó chỉ là hệ quả của sự mãn kinh. Mà như vậy thì đành chịu thôi chứ biết làm gì được!”. Chị vợ thì cảm thấy yên tâm vì chồng mình khó mà dan díu với ai khác và do đó không thể bỏ mình - vì sau ngày làm việc, anh ta vẫn tiếp tục bận rộn túi bụi: nào là đưa chị đi mua sắm, nào là chở bọn trẻ đi chơi... Anh chồng cũng cảm thấy yên tâm vì vợ anh khó lòng mà dan díu với ai khác và do đó không thể bỏ anh - vì hễ anh đi vắng thì chị bị chôn chân ở nhà, không thể đi ra ngoài gặp gỡ bất cứ ai. Cứ vậy, cuộc sống vợ chồng của những người lệ thuộc thụ động có thể vững bền và ổn định; nhưng những cuộc hôn nhân như vậy không thể được xem là lành mạnh hoặc có tình yêu đích thực - vì sự ổn định đó được mua bằng giá của tự do, và vì mối quan hệ kiểu ấy làm khựng lại hoặc tiêu hủy luôn quá trình trưởng thành của mỗi người trong họ. Đó là lý do tại sao chúng tôi cứ phải nhắc đi nhắc lại hoài với các cặp vợ chồng rằng “một cuộc hôn nhân tốt đẹp đúng nghĩa chỉ có thể tồn tại khi cả hai người đều mạnh mẽ và đều có bản lĩnh độc lập”.
Tình trạng lệ thuộc thụ động bắt nguồn ở nguyên nhân thiếu vắng tình yêu. Người lệ thuộc thụ động bị khắc khoải với tâm trạng trống rỗng bên trong - và tâm trạng này là kết quả của một thời thơ ấu thiếu vắng tình thương và sự ân cần săn sóc của cha mẹ. Như chúng ta đã đề cập trong phần trước, những đứa trẻ được yêu thương và được săn sóc tương đối chu đáo sẽ bước đến tuổi trưởng thành với niềm xác tín sâu sắc rằng mình là một cái gì đáng yêu và có giá trị và - do đó - sẽ được yêu thương và săn sóc bao lâu niềm xác tín ấy vẫn còn. Trái lại, những đứa trẻ lớn lên trong một bầu khí thiếu vắng tình yêu và sự quan tâm săn sóc sẽ buớc vào tuổi trưởng thành với một tâm trạng đầy bất an và lo lắng. Thật vậy, đó là tâm trạng trăn trở vì “mình thiếu thốn” và cảm thấy cuộc đời đầy bất trắc và nghiệt ngã.
Thêm vào đó là nỗi mặc cảm rằng mình không có giá trị và không đáng được người khác yêu mến. Thật dễ hiểu tại sao những người này thường vồ chụp lấy tình yêu và sự quan tâm săn sóc ở bất cứ đâu mà họ có thể gặp thấy. Và khi đã gặp thấy rồi, họ cố bám chặt lấy nó một cách điên cuồng đến nỗi nhiều khi họ có những lối hành xử đầy thủ đoạn và bất nhẫn - nghĩa là chính họ sẽ phá hư mối quan hệ mà họ muốn bảo tồn. Cũng trong phần trước, chúng ta đã thấy rằng tình yêu và khuôn khổ kỷ luật - tức quy phạm - luôn gắn liền với nhau.
Những cha mẹ không yêu thương săn sóc con cái cũng chính là những cha mẹ không có mấy kỷ luật trong đời sống bản thân. Không giúp được cho con cái mình cảm thấy rằng chúng được yêu, họ cũng không giúp được cho chúng khả năng sống một đời sống có khuôn khổ. Như vậy, tình trạng lệ thuộc thái quá của những người lệ thuộc thụ động chính là dấu hiệu chủ yếu cho thấy sự rối loạn nhân cách nơi họ. Người lệ thuộc thụ động là người thiếu khả năng tự chế. Họ không muốn và không đủ sức để kiểm soát nỗi khát khao được người khác quan tâm đến mình. Trong khi cố vun quén và gìn giữ những mối quan hệ gắn bó tình cảm với người khác, họ sẵn sàng thí đốt cả lòng thành thật. Họ níu giữ những mối quan hệ lăng nhăng vô ích mà lẽ ra họ nên cắt đứt. Song nghiêm trọng hơn cả, họ thiếu mất cả ý thức trách nhiệm đối với chính bản thân. Họ thụ động hướng nhìn về kẻ khác - thậm chí nhìn về con cái họ - như là nguồn cung cấp cho họ niềm vui và sự thỏa mãn. Vì thế, khi họ không được thỏa mãn, không được vui, họ cho rằng đó là tại lỗi của người khác. Cứ thế, họ triền miên bất mãn vì họ triền miên mang tâm trạng bị người khác xử tệ; bởi thực sự đâu có ai có thể đáp ứng mọi yêu cầu của họ và “làm” cho họ hạnh phúc được! Một đồng nghiệp của tôi thường nói: “Này anh bạn, điều tệ hại nhất mà anh có thể làm cho chính mình đó là anh để mình lệ thuộc vào một người khác. Chẳng thà anh sa vào nghiện ngập heroin còn đỡ tệ hại hơn. Vì bao lâu anh còn có heroin, heroin sẽ không bao giờ làm anh thất vọng. Heroin chắc chắn sẽ làm anh vui, miễn là anh có nó. Còn nếu anh kỳ vọng một con người nào đó sẽ làm anh vui, anh sẽ gặp hết thất vọng này đến phũ phàng khác”. Thật vậy, không phải ngẫu nhiên việc những người lệ thuộc thụ động - khi gặp thất vọng trong quan hệ với kẻ khác - thường đâm đầu vào chỗ nghiện ngập rượu và ma túy. Nhân cách của người lệ thuộc thụ động là “nhân cách của kẻ nghiện”. Họ nghiện người khác. Họ lao thẳng vào và ngấu nghiến người khác. Và khi không có ai để họ lao vào và ngấu nghiến, họ thường tìm đến với rượu và ma túy - như một cách để bù trừ!
Nói tóm, sự lệ thuộc có những dáng dấp như thể là tình yêu - vì nó là một động lực xô đẩy người ta tới gắn kết mãnh liệt với nhau.
Nhưng thực sự nó không phải là tình yêu. Nó chỉ là một dạng đối lập với tình yêu. Sự lệ thuộc phát nguồn từ tình trạng thiếu vắng tình yêu của cha mẹ - và đến lượt mình, người lệ thuộc sẽ lặp lại tình trạng thiếu vằng này. Người lệ thuộc cố tranh thủ để nhận hơn là để cho.
Con đường trưởng thành của họ bị chặn đứng, còn nhân cách ấu trĩ thì được củng cố. Họ bị giam hãm chứ không phải được giải phóng.
Cuối cùng, sự lệ thuộc tàn phá chứ không xây dựng các mối quan hệ - tàn phá chứ không xây dựng con người.
QUYẾN LUYẾN MÀ KHÔNG YÊU.
Trong sự lệ thuộc có một khía cạnh đáng để ý - đó là người lệ thuộc không hề quan tâm đến sự trưởng thành tinh thần. Họ chỉ muốn hưởng thụ. Họ khát khao được thỏa mãn, được sung sướng - chứ không khao khát được trưởng thành. Họ không muốn gánh chịu những nỗi phiền phức, cô đơn và đau khổ không thể tránh khỏi trên con đường tiến đến trưởng thành. Người lệ thuộc cũng không bận tâm tới sự trưởng thành tinh thần của kẻ mà họ bám víu. Họ chỉ thao thức một điều: kẻ ấy có đó để thỏa mãn họ. Sự lệ thuộc là một trong những dạng ứng xử dễ bị tưởng lầm là tình yêu - mà kỳ thực không phải là tình yêu, vì lệ thuộc không làm người ta trưởng thành. Chúng ta sẽ xem xét một số dạng ứng xử khác nữa vốn cũng dễ bị ngộ nhận là tình yêu. Và chúng ta sẽ thấy sáng tỏ rằng việc quyến luyến người ta và sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của người ta mà không lưu tâm đến sự trưởng thành tinh thần của người ta thì cũng không phải là tình yêu chút nào cả.
Chúng ta vẫn thường nói về người này kẻ kia rằng ông ấy yêu vật này, bà ấy yêu việc nọ - chẳng hạn, yêu tiền bạc, yêu danh vọng, yêu cây cảnh, yêu thể thao... Quả là có những người có thể đi quá mức độ bình thường, say mê làm việc sáu mươi, bảy mươi, tám mươi giờ mỗi tuần để thu vén của cải hay quyền lực càng nhiều càng tốt. Thế nhưng, dù tài sản hay tên tuổi của họ có lớn đến đâu, tất cả những nỗ lực thu vén của họ cũng không hề làm cho bản ngã họ được triển nở. Thật vậy, thỉnh thoảng chúng ta vẫn có thể bình phẩm về một tay trọc phú nào đó rằng “ông ấy là một kẻ ti tiện, hung ác và bủn xỉn”.
Trong khi vẫn nhìn nhận ông trọc phú ấy yêu tiền bạc và quyền lực, chúng ta lại không thể cho rằng ông ta là một con người biết yêu thương. Tại sao vậy? Tại vì của cải và quyền lực - đối với ông - đã trở thành cứu cánh chứ không phải là phương tiện để ông đạt đến một mục tiêu thuộc bình diện tinh thần. Thế mà cứu cánh đích thực duy nhất của tình yêu chính là sự phát triển tinh thần, tức sự thăng tiến về nhân tính.
Các môn giải trí là những hoạt động chúng ta dùng để tự di dưỡng. Nếu chúng ta biết yêu chính bản thân mình - nghĩa là biết tự di dưỡng để lớn lên về tinh thần - chúng ta cũng phải biết tự cung ứng cho mình tất cả những gì cần thiết dù chúng không trực tiếp thuộc lãnh vực tinh thần. Để di dưỡng tinh thần thì không thể không di dưỡng thể xác. Chúng ta cần lương thực để ăn và nhà cửa để ở.
Dù có hăng hái đến mấy đối với việc thăng tiến tinh thần, chúng ta cũng cần sự nghỉ ngơi và thư giãn, cần vận động thân thể và cần để cho tâm trí có những lúc được lang bang. Các thánh nhân cũng phải ngủ và các đạo sư cũng phải chơi đùa. Nghĩa là các thú tiêu khiển có thể là phương tiện qua đó chúng ta chăm sóc chính mình. Song nếu một thú tiêu khiển trở thành một cứu cánh tự thân nó, bấy giờ nó không còn là phương tiện để người ta phát triển bản ngã nữa mà đã thay thế chính mục tiêu ấy. Chẳng hạn, trong môn đánh gôn, có những quí ông và quí bà cao niên mà mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc sống họ là thắng thêm vài điểm nữa trong cuộc chơi. Họ cố hết sức để chơi hay hơn, và sự nỗ lực ấy giúp họ cảm thấy rằng mình đang tiến bộ trong cuộc sống và - vì thế - cũng giúp họ lãng quên thực tế rằng họ đã khựng lại và đã ngừng nỗ lực hoàn thiện chính mình trong tư cách là người. Nếu họ biết yêu chính mình hơn, hẳn họ sẽ không để mình quá mất ăn mất ngủ vì một mục tiêu nông cạn và hời hợt như vậy.
Đàng khác, quyền lực và tiền của có thể là những phương tiện tốt để phục vụ cho mục tiêu yêu thương, Chẳng hạn, một người có thể dấn thân vào sự nghiệp chính trị với bao nhiêu nhọc nhằn nhằm mục đích chính là sử dụng quyền lực chính trị của mình để mưu cầu thiện ích cho nhân loại. Hoặc một số người có thể cần cù kiếm tiền không phải vì tiền nhưng vì muốn có điều kiện để cho con cái ăn học - hoặc để cho chính bản thân họ có được điều kiện để học hỏi và suy tư những gì cần thiết cho sự trưởng thành tinh thần của họ. Trong trường hợp này, cái mà họ yêu không phải là quyền lực hay tiền của nhưng chính là con người.
Điều tôi muốn hàm ý ở đây - cũng như trong suốt phần này của quyển sách - đó là chúng ta sử dụng từ “yêu” một cách quá chung chung - và do đó gây lộn xộn cho việc nhận hiểu ý nghĩa của tình yêu đích thực. Đành rằng tôi không có ý đòi điều chỉnh lại cách nói của đại chúng trong vấn đề này. Song bao lâu tiếng “yêu” còn được chúng ta dùng để mô tả mối quan hệ của mình với bất cứ cái gì mình cho là quan trọng, bất cứ cái gì mình quyến luyến mà không hề cân nhắc đến chất lượng của mối quan hệ ấy - thì bấy lâu chúng ta sẽ còn gặp khó khăn trong việc nhận hiểu ai là người khôn ngoan thực và ai là người dại dột thực, ai là người tốt và ai là người xấu, ai thanh cao và ai dung tục...
Căn cứ theo định nghĩa chuyên biệt hơn về tình yêu mà chúng ta đã đề xuất - thì vấn đề sẽ thật rõ ràng: ta chỉ có thể yêu con người mà thôi. Sở dĩ thế bởi vì theo cách quan niệm thông thường của chúng ta, chỉ có con người mới có một tinh thần với khả năng triển nở đáng kể. Hãy xem xét vấn đề các con vật nuôi, chẳng hạn. Chúng ta “yêu” con chó nhà mình. Ta cho nó ăn, tắm nó, vuốt ve và âu yếm nó; ta dạy dỗ nó và chơi đùa với nó. Khi con chó ngã bệnh, ta có thể bỏ ngang mọi việc mình đang làm để đưa nó đến bác sĩ thú y. Nếu con chó đi lạc mất hoặc chết, ta nuối tiếc thẫn thờ. Thật vậy, đối với một số người trong hoàn cảnh cô độc, những con vật nuôi có thể trở thành lẽ sống duy nhất của họ. Vậy nếu đó không phải là tình yêu, thì là cái gì? Nào, ta hãy thử xem xét sự khác nhau giữa mối quan hệ của ta với một con người khác. Trước hết, sự liên lạc với một con vật nuôi thật quá hạn chế so với mối liên lạc với một con người mà ta bầu bạn. Ta không thể biết chắc con chó của mình đang nghĩ gì.
Chính nhờ sự “không biết” ấy mà ta có thể gán những ý nghĩ và tâm trạng của chính mình cho con vật - để rồi cảm thấy một sự thân tình gần gũi với nó - mà kỳ thực chẳng có gì chắc chắn là nó cảm nghĩ đúng như ta mường tượng. Thứ hai, chúng ta lấy làm thỏa mãn chỉ khi những ý muốn của con vật nuôi am hợp với ý muốn của ta. Đây chính là cơ sở hàng đầu để ta lựa chọn vật nuôi, và khi thấy có dấu hiệu con vật bắt đầu ngang ngạnh bất kham, chúng ta tính đến chuyện tống khứ nó đi. Ta không kiên trì giữ một con vật nếu nó chống lại mình. Bài học duy nhất mà ta dạy cho con vật nuôi để phát triển nó chính là bài học tuân phục. Trong khi đó, ta lại có thể ước muốn những người khác xây dựng một “ý chí riêng cho họ”; thật vậy, mong muốn người khác có được bản sắc riêng của họ, đó là một trong những đặc điểm của tình yêu đích thực. Cuối cùng, trong quan hệ với con vật nuôi, ta cố tìm cách để củng cố tình trạng lệ thuộc của nó. Chúng ta không muốn con chó của mình trưởng thành và trở nên độc lập khỏi mình. Ta muốn nó ngoan ngoãn làm theo mọi hiệu lệnh của ta. Ta đánh giá một con chó theo mức độ nó gắn bó với mình hơn là theo mức độ nó độc lập khỏi mình.
Vấn đề “yêu” vật nuôi mà ta đang bàn ở đây thật có tầm quan trọng - vì có nhiều, rất nhiền người chỉ có khả năng “yêu” các con vật nuôi thôi chứ không hề có khả năng thực sự yêu thương con người.
Vô số binh lính viễn chinh Mỹ đã cưới các cô gái Đức, Ý, Nhật... và đã có những cuộc hôn nhân bình yên vô sự với những người vợ bất đồng ngôn ngữ ấy. Nhưng đến khi các cô vợ của họ bắt đầu học tiếng Anh thì hôn nhân của họ cũng bắt đầu rục rịch đổ vỡ. Sở dĩ thế bởi vì các anh chồng không còn có thể phóng chiếu lên vợ họ những ý nghĩ, tâm trạng, ước muốn và mục tiêu của chính họ và - nhờ đó - có được cảm nghiệm thân tình gần gũi với vợ y như trường hợp quan hệ với một con vật nuôi. Thay vào đó, khi các cô vợ học tiếng Anh, những anh chồng này bắt đầu nhận ra rằng vợ mình có những ý tưởng, quan điểm và mục tiêu khác với mình. Đối với một số trường hợp, đây là lúc tình yêu bắt đầu phát triển; đối với nhiều trường hợp khác, đây lại là lúc tình yêu tiêu tan. Những người phụ nữ “ván chưa đóng thuyền” cần cảnh giác đối với những người đàn ông tha thiết gọi mình là “con mèo cưng của anh”, những người đàn ông chỉ yêu mình vì mình tỏ ra là một “con mèo cưng”, những người đàn ông không đủ khả năng để tôn trọng sức mạnh, tính cách độc lập và cá vị tính của mình. Song có lẽ ví dụ đáng buồn nhất của hiện tượng “chỉ yêu vật nuôi thôi” chính là tình trạng rất nhiều phụ nữ chỉ có thể “yêu” con mình khi nó còn ở tuổi bồng ẵm trên tay. Những người phụ nữ này có thể được tìm thấy ở khắp nơi. Họ là những bà mẹ lý tưởng khi đứa con của họ chưa đến tuổi thôi nôi. Họ vuốt ve nó không biết chán, họ thích thú úp mặt con vào ngực mình để cho nó bú, họ âu yếm nó và giỡn với nó. Tình cảm của họ thật nồng nàn, mối quan tâm của họ thật triệt để, và niềm vui của họ thật mênh mang chất ngất trong tư cách làm mẹ. Nhưng, bỗng một lúc nào đó, mọi sự hoàn toàn thay đổi. Khi đứa bé bắt đầu chứng tỏ rằng nó có ý muốn riêng của nó: nó không nghe lời, nó khóc nhè, nó từ chối chơi với mẹ và thỉnh thoảng nó giãy nảy không chịu để mẹ vuốt ve, nó “theo” người khác, nó bắt đầu tìm kiếm sự độc lập... thì đó cũng là lúc mà tình yêu của các bà mẹ này teo lại và tắt ngúm. Bà mẹ sẽ không dành quan tâm cho đứa trẻ như trước nữa; bà lạnh nhạt với nó, bà xem nó chỉ như một sự quấy rầy. Đồng thời bà thường cảm thấy rất muốn có thai lại, để có một đứa bé khác - một cục cưng khác. Thường thì bà sẽ đạt được ước muốn của mình, nghĩa là có thai và sinh đứa bé khác - thế là vòng quay lại bắt đầu. Nếu không, người ta sẽ thấy bà thường xuyên chạy qua nhà hàng xóm để bồng ẵm và nựng nịu đứa bé của láng giềng - trong khi chẳng quan tâm gì mấy đến con cái (đã lớn hơn) của chính mình. Đối với những đứa trẻ của các bà mẹ như thế, tuổi lên hai không chỉ là tuổi thôi nôi mà đó còn là tuổi chấm dứt kinh nghiệm được mẹ mình yêu thương. Nỗi khổ và nỗi buồn tủi nơi những đứa trẻ này được nhận thấy một cách rõ ràng bởi mọi người xung quanh - ngoại trừ mẹ nó, vì bà đang bận rộn với cục cưng mới của bà. Tâm trạng buồn tủi ấy thường gây di lụy mãi đến tuổi trưởng thành: đứa trẻ lớn lên thành một người bạc nhược bi quan và có nhân cách lệ thuộc thụ động.
Những dẫn giải trên nhằm cho thấy rằng loại “tình yêu” đối với em bé và đối với vật nuôi - ngay cả đối với người vợ (hay chồng) luôn luôn ngoan ngoãn lệ thuộc và vâng lời mình - là một kiểu cách ứng xử thuần túy có tính bản năng mà ta có thể gọi là “bản năng làm mẹ”, hay nói khái quát hơn: “bản năng làm cha mẹ”. Ta có thể so sánh loại bản năng này với bản năng “phải lòng” (đã được bàn đến trước đây): nó không phải là hình thái đúng đắn của tình yêu bởi vì nó không đòi mấy nỗ lực; nó cũng không hoàn toàn là một hành vi quyết định hay chọn lựa của ý chí; nó hậu thuẫn cho bản năng sinh tồn của giống loài song nó lại không trực tiếp đóng góp cho sự cải thiện và sự trưởng thành tinh thần của giống loài; nó gần với tình yêu ở chỗ nó là một vận động hướng ra với người khác và hậu thuẫn cho việc thiết lập những mối ràng buộc liên vị mà từ đó tình yêu đích thực có thể nảy sinh; nhưng còn vô số việc đòi người ta phải làm để có thể xây dựng một cuộc hôn nhân lành mạnh và đầy sức sống, để nuôi dạy một đứa trẻ lớn lên một cách vững vàng cả thể xác lẫn tinh thần, hoặc để đóng góp cho sự thăng tiến của nhân loại.
Vấn đề cần ghi nhận ở đây là: di dưỡng không phải chỉ có nghĩa đơn thuần là cho bú, cho ăn, và sự di dưỡng tinh thần là một tiến trình bao giờ cũng đầy tính tế nhị nên ta không thể đặt công việc đó dưới sự điều động của bản năng. Trước đây chúng ta đã có nhắc đến một bà mẹ không cho phép con trai mình đi xe buýt đến trường.
Xét theo một nghĩa nào đó, việc bà lái xe hơi đưa đón con trai mỗi ngày là một việc di dưỡng cho con. Nhưng con trai bà lại không cần loại di dưỡng ấy - vì khi làm thế, bà đang kìm hãm hơn là thúc đẩy tiến trình phát triển tinh thần của con bà! Chúng ta còn có thể kể ra vô số ví dụ khác nữa, như: những bà mẹ cố ép con cái mình ăn nhiều dù chúng đã béo phì; những ông bố mua quá nhiều đồ chơi cho con trai và quá nhiều quần áo cho con gái; những bậc cha mẹ quá cưng chiều con mình đến độ nó muốn gì được nấy. Thế mà, tình yêu đâu phải có nghĩa là cho đi một cách dễ dãi vô nguyên tắc. Tình yêu đích thực đòi người ta biết cho đi một cách sáng suốt và cũng biết giữ lại một cách sáng suốt. Nó đòi ta biết khen một cách sáng suốt song cũng biết phê phán một cách sáng suốt. Yêu người là sáng suốt tranh luận với người, sáng suốt giằng co với người, sáng suốt đương đầu với người, sáng suốt năn nỉ, thúc ép, dỗ dành người.
Tình yêu là năng lực lãnh đạo. Nói “sáng suốt” có nghĩa rằng phải biết cân nhắc suy xét, và làm sao ta có thể cân nhắc suy xét được nếu chỉ huy động có bản năng thôi! Yêu là phải động não và nhiều khi phải đưa ra những quyết định tím lòng.
Người ta có thể trao ban một cách thiếu sáng suốt và gây tai hại cho người khác vì nhiều động lực khác nhau - nhưng đằng sau các động lực ấy có thể ghi nhận một nét căn bản chung: đó là “người trao ban” - ngụy trang dưới danh nghĩa tình yêu - đang đáp ứng những nhu cầu của chính mình mà không quan tâm đến các nhu cầu tinh thần của người nhận. Một viên chức nọ - sau hồi lâu lưỡng lự - đã đến gặp tôi và cho biết rằng vợ ông đang bị suy sụp tinh thần mãn tính và cả hai con trai ông đã phải bỏ ngang học trình đại học để ở nhà điều trị tâm thần. Dù cả nhà ông đang “bệnh” như vậy, đầu tiên ông vẫn hoàn toàn không hay biết rằng rất có thể bản thân mình có liên quan trách nhiệm đến tình trạng “bệnh hoạn” ấy. Ông kể: “Tôi làm tất cả những gì có thể để săn sóc vợ con tôi, không có một giây phút nào mà tôi không nghĩ đến vợ và con tôi.” Sau khi tìm hiểu và phân tích tình hình của người đàn ông này, tôi nhận thấy rằng quả thật ông đã làm việc tắt mặt tối mày để cung ứng cho nhu cầu của vợ con ông. Ông đã mua cho mỗi đứa con trai một xe hơi đời mới, rồi chính ông chi trả tiền bảo hiểm cho chúng - mặc dù ông vẫn cảm thấy rằng các con mình nên bắt đầu tập tự lập dần dần. Tuần nào ông cũng đưa vợ vào thành phố xem phim hoặc xem nhạc kịch mặc dù bản thân ông vừa ghét ôpêra vừa không thích đi tới chốn ồn ào náo nhiệt. Công việc ở sở thường xuyên ngập đầu, nhưng ông vẫn tranh thủ các giờ rảnh của mình ở nhà để dọn dẹp và chăm sóc nhà cửa - vì vợ và các con ông chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện lau chùi quét dọn. “Ông dốc sức phục vụ vợ con như vậy mà không thấy mệt sao?”, tôi hỏi. “Mệt lắm chứ”, ông trả lời, “nhưng tôi không thể làm gì khác hơn được. Tôi yêu vợ con và tôi không thể không săn sóc vợ con tôi. Tình cảm của tôi đối với vợ con không cho phép tôi đứng khoanh tay khi thấy vợ con mình cần điều gì đó. Có lẽ tôi không phải là một thức giả học sâu hiểu rộng, nhưng ít ra tôi có một tấm lòng”.
Có một chi tiết thú vị, đó là bố của người đàn ông này vốn là một học giả khá danh tiếng - song đồng thời cũng là một tay nghiện rượu và có nhiều quan hệ lăng nhăng với phụ nữ đến độ hoàn toàn phớt lơ trách nhiệm đối với gia đình. Dần dần, ông bệnh nhân của tôi được giúp đỡ và đã nhận ra rằng ngay từ hồi còn bé ông đã thề sẽ sống khác với bố mình càng nhiều càng tốt, sẽ trở thành một người đàn ông đầy tình cảm và quan tâm - vì bố ông đã tỏ ra là một con người gỗ đá và tắc trách. Rồi ông thậm chí đi đến nhìn nhận rằng ông vốn đã khẳng định cho mình một hình ảnh và hầu hết các hành vi cử chỉ của ông - kể cả ở sở làm - đều nhằm để củng cố hình ảnh ấy, đó là hình ảnh một con người dạt dào yêu thương và xả kỷ. Duy có điều mà ông không dễ dàng nhận ra, đó là ông không hiểu chính ông đã kìm hãm vợ con ông lại trong tình trạng ấu trĩ như thế nào. Ông luôn miệng gọi vợ ông là “con mèo nhỏ của anh”, và gọi hai đứa con trai đã đến tuổi trưởng thành hẳn hoi là “cục cưng của bố”. “Làm sao tôi có thể xử sự khác được?”, ông phân bua, “rất có thể việc tôi yêu thương vợ con là một cách để phản ứng lại bố tôi, nhưng chẳng lẽ chỉ vì vậy mà các hành vi yêu thương của tôi trở thành mất hết ý nghĩa yêu thương sao? Hoặc chỉ vì vậy mà tôi trở thành một đứa con bất hiếu với bố mình?” Thì ra, điều mà người đàn ông này cần nhận hiểu rõ đó là tình yêu có những khía cạnh phúc tạp hơn nhiều chứ không chỉ đơn giản như ông nghĩ, tình yêu đòi ông phải dấn thân trọn con người - cả cái đầu lẫn trái tim - chứ không phải chỉ có một việc là trao ban một cách bất cần cân nhắc suy xét. Vì mục đích của ông là trở nên khác với bố mình càng nhiều càng tốt nên ông không đủ khả năng để vạch ra cho mình một đường lối uyển chuyển biểu lộ tình yêu. Ông không biết rằng nhiều khi từ chối đáp ứng yêu cầu của người ta thì mới là yêu người ta thực sự. Ông không biết rằng yêu người ta là phải biết thúc đẩy người ta độc lập chứ không phải lăn vào chăm sóc cho họ về những gì mà họ có thể tự chăm sóc được cho chính họ. Ông cũng không biết rằng hễ yêu người ta thì có những khi phải biết đưa ra những đòi hỏi của chính mình, phải biết bày tỏ sự giận dữ, sự phản đối - vì những điều ấy cũng cần cho sự lành mạnh tâm thần của người ta không kém chi so với sự dấn thân phục vụ họ. Nghĩa là, tình yêu cũng cần phải được diễn tả bằng sự đương đầu chứ không phải duy chỉ bằng sự khoan nhượng.
Sau khi dần dần nhận thức ra những điều ấy, người đàn ông trong câu chuyện của chúng ta bắt đầu có những thay đổi. Ông không đích thân dọn dẹp hết những lộn xộn mà ông thấy trong nhà nữa; thay vào đó ông nghiêm khắc khuyến cáo các con trai ông phải biết chia sẻ các công việc nhà một cách thích đáng. Ông từ chối tiếp tục trả tiền bảo hiểm giao thông cho các con trai, bảo chúng rằng nếu chúng muốn lái xe thì phải tự lo lấy phần chi phí ấy. Ông đề nghị vợ ông nên đi New York một mình để xem ôpêra... Trong khi thay đổi như vậy, ông cũng phải chấp nhận nguy cơ bị vợ con hiểu lầm là “ông già mắc dịch” và ông cũng phải đoạn tuyệt cái uy phong của vai trò làm người cung ứng cho mọi nhu cầu của gia đình. Cho dù cung cách ứng xử trước đây của ông đã được thúc đẩy chủ yếu bởi nhu cầu muốn khẳng định mình là một con người biết yêu thương, nhưng trong thâm tâm ông vẫn một cách nào đó không xác tín đó là cung cách yêu thương đích thực; nhờ vậy mà ông đã có thể tiến hành cuộc sửa đổi toàn bộ hệ thống ứng xử của mình. Ban đầu, cả vợ và các con ông đều tỏ phản ứng giận dữ trước sự thay đổi của ông.
Nhưng chẳng bao lâu sau đó, một trong hai chàng con trai ông đã trở lại đại học, còn chàng kia thì nhận một việc làm có nhiều tính trách nhiệm hơn và sắm cho mình một căn hộ riêng. Vợ ông thì bắt đầu cảm thấy vui với tính cách độc lập mới mẻ của bà và trở thành chững chạc hơn. Còn chính bản thân ông, ông thấy mình làm việc có hiệu quả hơn ở sở và đồng thời cảm thấy cuộc sống ý vị hơn nhiều.
Cung cách yêu thương vốn sai lạc của người đàn ông nói trên là một dạng của chứng khoái khổ (masochism). Nhiều người thường có khuynh hướng cho rằng chứng khoái khổ (masochism) và kích khổ (sadism) chỉ thuần túy thuộc lãnh vực sinh hoạt tình dục - (nghĩa là những người mắc chứng này chỉ nhận khoái cảm tình dục trong việc gây ra hay nhận chịu sự đớn đau thể xác). Thật ra, hiện tượng kích khổ hay khoái khổ theo nghĩa ấy không phải là hiện tượng phổ biến lắm trong tâm bệnh học. Điều được ghi nhận thông thường hơn rất nhiều, và cũng nghiêm trọng hơn rất nhiều, đó là hiện tượng khoái khổ hoặc kích khổ trong cung cách ứng xử: một cách vô thức, người ta ước muốn bị hành khổ và ước muốn hành khổ nhau trong các mối quan hệ liên vị không dính dáng gì đến tình dục. Chẳng hạn, một phụ nữ tìm đến bác sĩ tâm thần vì bị suy sụp tinh thần do bị chồng chị lãnh đạm, hất hủi. Chị thao thao kể nào là chị bị chồng thường xuyên ngược đãi, nào là anh ta cặp hết bồ nhí này đến bồ nhí khác, nào là anh ta trút hết tiền lương vào sòng bạc, nào là anh ta thường xuyên vắng nhà và mỗi khi về nhà thì say xỉn đánh vợ chửi con; và cuối cùng, anh đi biền biệt bỏ mặc vợ con thui thủi ở nhà cả trong đêm nô- en! Chà, có vẻ lâm ly bi đát dữ! Một nhà trị liệu mới tập tễnh vào nghề sẽ dễ lập tức cảm thấy đồng cảm với người phụ nữ “tội nghiệp” này. Nhưng khi sự việc được tìm hiểu thêm, mối đồng cảm ấy cũng biến đi nhanh. Trước hết, vị y sĩ trị liệu khám phá ra rằng lề lối cư xử tệ bạc ấy của anh chồng không phải là cái gì mới mẻ mà là chuyện đã diễn ra hai chục năm rồi - và người phụ nữ đáng thương này đã hai lần li dị anh chồng dã man của chị, song lần nào rốt cục hai người cũng ráp nối trở lại, còn những vụ hục hặc rồi sau đó làm hòa nhau giữa hai vợ chồng thì xảy ra như cơm bữa. Hai nữa, sau một vài tháng xúc tiến trị liệu cho người phụ nữ, dường như chị đang đạt được tính cách độc lập ngày càng hơn và đang cảm thấy yên ả trong cuộc sống cách ly với chồng, bỗng dưng vị y sĩ trị liệu nhận ra rằng bệnh nhân của mình lại trở về với cái vòng tròn luẩn quẩn cố hữu trước đây. Số là thình lình một hôm người phụ nữ này vừa nhún nhảy tươi cười đi vào văn phòng trị liệu vừa nói oang oang: “Chà, thưa bác sĩ, Henry đã quay lại với tôi rồi. Anh ấy gọi tôi hôm kia và cho biết anh ấy muốn gặp tôi. Và chúng tôi đã gặp nhau. Anh ấy năn nỉ tôi tha thứ cho anh ấy. Tôi cũng nhận thấy anh ấy có vẻ đã thực sự thay đổi, vì thế tôi đã chấp nhận anh ấy trở về.” Khi nhà trị liệu đặt vấn đề rằng liệu đây có phải là một sự tái diễn cả tất cả những gì tệ hại đã từng xảy ra trước đây không, người phụ nữ xua tay: “Nhưng tôi yêu anh ấy. Và chắc bác sĩ không phủ nhận rằng đó là điều quan trọng nhất chứ?” Nếu nhà trị liệu cố gắng giải thích cho chị về bản chất của cái gọi là “tình yêu” nơi chị, người phụ nữ lập tức quyết định chấm dứt luôn quá trình trị liệu của mình!
Điều gì đã xảy ra vậy? Trong khi cố gắng ghi nhận lại tất cả sự việc, nhà trị liệu bỗng chú ý thấy rằng người phụ nữ ấy đã thích thú và mãn nguyện - một cách nào đó - khi kể ra câu chuyện lê thê về sự tàn nhẫn và phũ phàng của chồng chị. Một ý tưởng bất chợt lóe lên: Phải chăng người phụ nữ này chịu đựng sự ngược đãi - và thậm chí tìm kiếm sự ngược đãi ấy - duy chỉ nhằm để hưởng cái thú kể nó ra?
Nhưng đâu là bản chất của một cái thú như vậy? Nhà trị liệu nhớ lại tính cách tự mãn với người phụ nữ này. Phải chăng điều quan trọng nhất trên đời đối với chị là cảm nhận rằng mình tốt lành hơn người khác - và để đạt được cảm thức ấy, chị cần phải bị ngược đãi? Như vậy vấn đề đã trở nên rõ ràng. Bằng cách cho phép người ta xử tệ mình, chị có thể cảm thấy rằng mình tốt hơn người ta. Hơn nữa, chị thậm chí cũng có thể đạt được cái thú kích khổ (sadistic pleasure) khi chồng mình năn nỉ van xin mình tha thứ và khi hưởng cái uy lực thượng phong trên chồng - dù chỉ trong chốc lát - cái chốc lát mà chị đưa ra quyết định hoặc đón nhận lại anh ta hoặc không. Đó cũng là cái chốc lát mà chị trả được nỗi oán. Khi khảo sát kỹ những người phụ nữ như thế, điều thường được ghi nhận là hồi còn bé họ thường bị trêu chọc và hành sách. Bởi đó họ tìm cách trả thù bằng cảm thức rằng họ tốt lành hơn người ta, và để có được cảm thức ấy, họ phải thường xuyên bị hành sách và xử tệ. Nếu thế giới cư xử tốt lành với ta, ta đâu có lý do gì để oán hận. Còn nếu mục tiêu của ta là báo oán, ta sẽ phải làm sao để thấy rằng người ta đang xử tệ với mình - và như vậy ta có lý do để biện minh cho mục tiêu của mình. Những người mắc chứng khoái khổ cho rằng khi họ chịu đựng sự ngược đãi chính là lúc họ đang yêu - trong khi kỳ thực đó chỉ là cách để họ không ngừng nuôi lòng oán hận và tự căn bản hành vi chịu đựng của họ được thúc đẩy bởi lòng ghét chứ không phải lòng yêu.
Vấn đề khoái khổ mà chúng ta đề cập ở đây làm nêu bật một ngộ nhận rất thông thường khác nữa về tình yêu - đó là cho rằng thí bỏ chính mình cho người ta nghĩa là yêu người ta. Chính vì niềm tin tưởng này mà người phụ nữ khoái khổ kể trên đã cho rằng việc chị chịu đựng sự ngược đãi là hành vi thí bỏ chính mình và do đó cũng là tình yêu. Chị không hề nhận ra lòng căm ghét đồn trú trong lòng mình. Ông viên chức trong câu chuyện trên kia cũng xem thái độ hy sinh của mình là tình yêu mặc dù thực ra ông hy sinh không phải vì nhu cầu của gia đình cho bằng vì ông cảm thấy cần phải đạt đến một hình ảnh mà ông đã phác họa cho bản thân ông. Ban đầu trong quá trình trị liệu, ông không ngừng kể lể về những gì ông đang làm để phục vụ cho vợ con ông - khiến người ta dễ tin rằng ông chẳng tìm kiếm gì cho riêng mình trong những hành vi hy sinh ấy. Thế nhưng sự thực lại khác hẳn.
Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng mình đang làm điều gì đó cho người khác, thì đấy là lúc chúng ta đang đánh lận con đen. Bất cứ điều gì được chúng ta làm đều được làm bởi vì chúng ta có ý muốn làm, và chúng ta chọn lựa làm những điều ấy vì những điều ấy làm thỏa mãn ta nhiều nhất. Bất cứ điều gì ta làm cho một người khác cũng chỉ bởi vì nó đáp ứng một nhu cầu trong ta. “Chúng bay phải biết ơn chúng tao vì tất cả những gì chúng tao đã làm cho chúng bay!”, những cha mẹ nói với con cái mình như vậy là những cha mẹ thiếu tình yêu đối với con cái họ một cách nghiêm trọng. Ai yêu thương đích thực cũng nhận hiểu rõ mối khoái cảm của một người đang yêu thương. Sở dĩ chúng ta yêu thương đích thực cũng bởi vì chúng ta muốn yêu thương. Chúng ta có con bởi vì chúng ta muốn có con. Chúng ta yêu con bởi vì chúng ta muốn yêu con. Đành rằng tình yêu luôn gắn liền với một sự thay đổi trong bản ngã, song đó là một sự triển nở của bản ngã chứ không phải là một sự thí bỏ nó.
Như chúng ta sẽ đề cập đến sau này, tình yêu đích thực là một tiến trình kiện toàn chính mình. Quả thực, tình yêu làm phong phú hơn là làm hao mòn chính mình; tình yêu bồi đắp cho đến tràn trề hơn là rúc rỉa cạn kiệt chính mình. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng yêu cũng ích kỷ y hệt như không yêu vậy. Một lần nữa, ở đây ta thấy có nghịch lý rằng tình yêu vừa ích kỷ cũng vừa không ích kỷ. Sự khác biệt giữa yêu và không yêu không nằm ở chỗ có ích kỷ hay là không có ích kỷ. Điểm phân biệt giữa yêu và không yêu chính là mục tiêu của ta khi ta hành động. Nếu ta yêu đích thực, ta sẽ luôn nhắm đến mục tiêu thúc đẩy sự trưởng thành tinh thần nơi mình và người khác.
Nếu ta không yêu đích thực, mục tiêu của ta hẳn sẽ là một cái gì đó khác.
KHÔNG PHẢI LÀ MỘT CẢM XÚC
Tình yêu - như chúng ta đã nói - là một hành động, một hoạt động. Vì thế, một ngộ nhận nữa về tình yêu cũng cần phải được vạch ra ở đây. Đó là, tình yêu không phải là một cảm xúc. Rất nhiều người mang trong mình cảm xúc yêu và thể hiện những hành động để diễn tả cảm xúc ấy - song họ đã làm những việc chẳng có ý nghĩa yêu thương chút nào và thậm chí có sức phá hoại nữa. Đàng khác, một con người có tình yêu đích thực thường có những hành động đầy ý nghĩa yêu thương và xây dựng - cho dù là đối với một kẻ mà mình rõ ràng cảm thấy không ưa thích, rõ ràng mình có thể không có cảm xúc yêu thương đối với kẻ ấy gì cả trong chính thời điểm đó, thậm chí đó có thể là một kẻ mà mình tởm gớm.
Cảm xúc yêu là một cảm xúc gắn liền với kinh nghiệm quyến luyến. Quyến luyến là một quá trình trong đó một đối tượng trở thành rất quan trọng đối với ta. Khi ta quyến luyến một đối tượng (mà ta thường gọi là “đối tượng của tình yêu”), ta đổ dồn tâm lực của mình vào đó - như thể đó là một phần của bản thân mình, và mối quan hệ giữa ta và đối tượng ấy được gói là một mối quyến luyến. Vì cùng một lúc chúng ta có thể có nhiều mối quan hệ như vậy nên ta thường nói đến những mối quyến luyến. Rồi khi chúng ta rút lại năng lực của mình chứ không đổ dồn vào một đối tượng nào đó nữa, nó không còn có ý nghĩa quan trọng đối với ta nữa, ta gọi đó là sự chán chường. Sở dĩ chúng ta lầm tưởng tình yêu là một cảm xúc bởi vì ta lầm tưởng quyến luyến là yêu. Sự nhập nhằng này thật dễ hiểu, vì tình yêu và sự quyến luyến là hai quá trình khá giống nhau. Dù sao, giữa hai đàng cũng có những khác biệt đáng kể. Trước hết, như đã thấy, ta có thể quyến luyến bất cứ sự gì - vật có hồn cũng như vật vô tri. Một người có thể quyến luyến với thị trường cổ phiếu cũng như quyến luyến với một món nữ trang - và dễ cảm thấy rằng mình đang yêu những thứ ấy. Thứ hai, ngay cả khi chúng ta quyến luyến một con người thì cũng không phải luôn luôn có nghĩa là ta đang quan tâm đến sự phát triển tinh thần của con người ấy. Thực vậy, những người lệ thuộc thụ động thường cảm thấy lo sợ khi nhận ra chồng hay vợ mình đang lớn lên về mặt tinh thần. Câu chuyện bà mẹ khư khư đòi lái xe đưa đón đứa con trai đã lớn của mình ở trường là một ví dụ rất rõ: bà quyến luyến con trai bà; con trai bà rất quan trọng đối với bà - nhưng sự trưởng thành tinh thần của nó thì không có ý nghĩa gì đối với bà cả! Thứ ba, chúng ta có thể quyến luyến rất mãnh liệt mà không khôn ngoan chút nào, cũng có thể không có chút tinh thần dấn thân nào. Hai con người hoàn toàn xa lạ có thể gặp nhau trong một quán rượu và quyến luyến nhau đến độ lúc ấy không có gì quan trọng đối với họ cho bằng cuộc ân ái cuồng nhiệt mà họ đang đắm đuối - mọi cái hẹn hay lời hứa với bất cứ ai khác đều bị bỏ ngang không chút đắn đo, vợ con (hay chồng con) lúc này chỉ là dêrô! Và cuối cùng, sự quyến luyến của chúng ta có thể chỉ có tính nhất thời như lửa rơm. Liền ngay sau cuộc ái ân cuồng nhiệt, hai con người nói trên có thể cảm thấy chán ngấy nhau. Chúng ta có thể rất dễ chán chường một cái gì đó mà mình mới vừa rất quyến luyến.
Tình yêu đích thực, trái lại, luôn gắn liền với sự khôn ngoan suy xét và với thái độ dấn thân đầy trách nhiệm. Khi chúng ta quan tâm đến sự phát triển tinh thần của một người nào đó, chúng ta luôn cảm thấy rằng sẽ rất không ổn nếu không có sự ràng buộc trách nhiệm đối với người ấy, và sự ràng buộc này xem ra rất cần thiết để chúng ta thể hiện sự quan tâm của mình một cách hiệu quả. Đây chính là lý do tại sao giữa bệnh nhân và nhà tâm lý trị liệu luôn phải có một mối quan hệ đặt cơ sở trên sự ràng buộc trách nhiệm. Một bệnh nhân sẽ dường như không thể đạt được sự tiến triển nào đáng kể nếu không có một “giao ước trị liệu” với vị y sĩ trị liệu. Nói cách khác, trước khi bệnh nhân có thể dám phiêu lưu vào một cuộc đổi thay thiết yếu nào đó, người ấy phải cảm nhận được một sức mạnh và một sự đảm bảo đặt căn bản trên niềm tin rằng vị y sĩ trị liệu của mình sẽ luôn luôn là bạn đồng minh mà mình có thể tín nhiệm. Để tạo được niềm tin ấy nơi bệnh nhân, nhà trị liệu thường phải mất khá nhiều thời gian để kiên trì quan tâm sâu sắc đến người bệnh của mình - nghĩa là nhà trị liệu phải tự ràng buộc mình vào trách nhiệm. Nói thế không có nghĩa là nhà trị liệu bao giờ cũng cảm thấy thích lắng nghe bệnh nhân đâu.
Tuy nhiên, vì tinh thần trách nhiệm, anh ta sẽ nghiêm túc lắng nghe, dù thích hay không thích. Trong hôn nhân cũng vậy. Một cuộc hôn nhân vững mạnh - (cũng như một cuộc trị liệu đầy hứa hẹn) - là một cuộc hôn nhân trong đó người vợ và người chồng biết chăm sóc lẫn nhau và chăm sóc cho mối quan hệ vợ chồng một cách thường xuyên, điều hòa và chắc chắn, dù họ có hay không có hứng thú để làm thế. Như chúng ta đã nhắc đến trước đây, sớm hay muộn thì ái tình lãng mạn giữa hai vợ chồng cũng sẽ tắt ngúm - và chính khi mà cái bản năng kết đôi trở nên lụi tàn thì đó là lúc mà hai người có thể bắt đầu một tình yêu đích thực. Chính khi mà hai vợ chồng không còn cảm thấy thích ở bên nhau luôn nữa - thay vào đó, muốn có những lúc rời xa khỏi nhau - thì đó là lúc mà họ có thể kiểm nghiệm họ có yêu nhau thực sự hay không.
Nói thế không hề có nghĩa rằng trong một mối quan hệ hôn nhân vững mạnh và ổn định thì hai vợ chồng không hề quyến luyến nhau bằng cách này hay cách khác. Họ cũng có thể quyến luyến nhau lắm chứ. Nhưng điều đáng nói ở đây là tình yêu đích thực vượt trên vấn đề quyến luyến hay không quyến luyến. Hễ có tình yêu thì tình yêu làm việc - có thể có hay không có quyến luyến và có thể có hay không có cảm xúc yêu thương. Đành rằng nếu có sự quyến luyến và có cảm xúc yêu thì tình yêu sẽ vận hành dễ hơn. Nhưng người ta vẫn hoàn toàn có thể yêu mà không hề có quyến luyến hay cảm xúc nào. Và chính khả năng này giúp ta phân biệt giữa một bên là tình yêu đích thực và siêu vượt còn bên kia là nỗi quyến luyến thuần túy.
Sự khác biệt hệ tại ở chỗ “ý chí”. Tôi đã định nghĩa tình yêu là ý chí mở rộng bản ngã ra để cho chính mình và người khác được trưởng thành hơn về mặt tinh thần. Tình yêu đích thực thuộc lĩnh vực ý chí hơn là thuộc lĩnh vực cảm xúc. Khi một người thực sự yêu thì đấy là vì người ấy quyết định yêu. Người ấy quyết tâm yêu cho dù có hay không có cảm xúc yêu. Nếu người ấy có cảm xúc yêu, càng tốt; song nếu như không có xúc cảm gì thì quyết tâm yêu và ý chí yêu của người ấy vẫn đứng vững và vẫn vận hành. Hơn nữa, việc một người đang yêu tránh hành động theo cảm xúc yêu là một việc không những có thể mà còn cần thiết nữa. Tôi có thể gặp một phụ nữ thu hút tôi mãnh liệt, tôi cảm thấy mình có khuynh hướng muốn yêu hàng; nhưng vì tôi biết rõ rằng nếu mình có một mối tình dan díu vào thời điểm này sẽ gây nguy hại không lường được cho cuộc hôn nhân của mình, tôi sẽ nhủ thầm: “Anh muốn yêu em lắm nhưng anh không thể.” Cũng vậy, tôi có thể từ chối không nhận một bệnh nhân mới (dù tôi cảm thấy rất thích người ấy và dù có nhiều hy vọng sẽ thành công mỹ mãn nếu tôi đảm nhận việc trị liệu cho người ấy) bởi vì thời giờ của tôi đã được xếp ưu tiên cho những bệnh nhân khác - cho dẫu những bệnh nhân này chẳng có nét gì quyến rũ tôi và vấn đề của họ thì lại gay go hơn nhiều. Cảm xúc yêu của tôi có thể không cùng, nhưng khả năng yêu của tôi thì có hạn. Vì thế tôi phải lựa chọn người để tập trung năng lực yêu và ý chí yêu của mình vào. Tình yêu đích thực không phải là một cảm xúc mênh mông để chúng ta ngất ngây trong đó. Tình yêu là một quyết định dấn thân đầy cân nhắc.
Cũng vì thường tình người ta lẫn lộn tình yêu với cảm xúc yêu nên có rất nhiều người tự lừa dối mình cách này hay cách khác. Một anh chàng bợm rượu nọ đang ngồi uống một cách rất thoải mái trong quán - trong khi vợ con anh ở nhà đang quay quắt cần anh. Anh thỏ thẻ với người bồi quán rượu, trong giọng đầy xúc động: “Ông biết không, tôi yêu vợ con tôi lắm!” Những người bỏ bê con cái một cách phũ phàng nhất thường tự cho mình là những người thương yêu con cái nhất. Rõ ràng khi người ta lẫn lộn tình yêu với cảm xúc yêu, một phần cũng vì người ta muốn biện minh cho mình. Đi tìm chứng cứ yêu trong cảm xúc yêu của mình là điều vừa dễ dàng vừa dễ chịu. Đi tìm chứng cứ yêu trong hành động của mình thường gay go hơn nhiều. Nhưng bởi vì tình yêu đích thực là một hành động của ý chí - nó vượt trên những cảm xúc yêu và những niềm quyến luyến nhất thời - nên ta có thể nói: “Tình yêu chính là những việc làm của tình yêu”. Yêu và không yêu - cũng như thiện và ác - là những hiện tượng khách quan chứ không phải một cái gì thuần túy chủ quan.
YÊU LÀ THỂ HIỆN VIỆC QUAN TÂM
Cho tới đây chúng ta đã xem xét một số biểu hiện thường bị nhầm lẫn với tình yêu nhưng không phải là tình yêu. Bây giờ đã đến lúc chúng ta tìm hiểu một số khía cạnh của tình yêu. Như ta đã thấy trong mục dẫn nhập vào phần này, tình yêu - trong bản chất của nó - có hàm chứa sự nỗ lực. Khi ta mở rộng bản ngã mình ra, khi ta bước thêm một bước hay lội bộ thêm một dặm, ta đang làm ngược lại bản năng ù lì lười biếng hay tính nhát sợ của mình. Vì việc mở rộng bản ngã - nghĩa là việc đi ra - đối lập lại với sự ù lì lười biếng, nên ta gọi đó là công việc. Việc đi ra ấy có bao hàm sự giáp mặt với nỗi sợ nên ta gọi đó là sự can đảm. Như thế, tình yêu cũng là một công việc hoặc một sự can đảm. Nói rõ hơn, tình yêu là công việc hay sự can đảm hướng đến mục đích làm cho mình hoặc người khác lớn lên về mặt tinh thần. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm việc hoặc thể hiện sự can đảm nhằm những mục đích khác chứ không nhằm mục đích trưởng thành tinh thần; vì thế không phải mọi công việc và mọi biểu hiện can đảm đều là tình yêu. Có điều chắc chắn là: vì tình yêu đòi ta phải mở rộng bản ngã ra nên tình yêu bao giờ cũng phải là một công việc hoặc một biểu hiện can đảm. Nếu một hành động không phải là hành động của công việc hay của lòng can đảm thì đó không phải là hành động của tình yêu. Không có một ngoại lệ nào ở đây.
Công việc của tình yêu mang hình thức chủ yếu là sự quan tâm.
Khi ta yêu một người, ta dành quan tâm của mình cho người đó, ta quan tâm đến sự trưởng thành của người đó. Khi chúng ta yêu chính mình, chúng ta quan tâm đến sự trưởng thành của chính mình. Quan tâm đến một người có nghĩa là săn sóc người đó. Hành vi quan tâm đòi ta phải cố gắng gác qua một bên những bận tâm đang có trong mình và tích cực huy động ý thức của mình tập chú vào đối tượng mà mình yêu. Quan tâm là một hành vi của ý chí, là một công việc đối nghịch lại với sự ù lì biếng nhác của trí óc. Như Rollo May đã nói: “Khi chúng ta phân tích ý chí với tất cả những phương tiện hiện đại mà khoa phân tâm học cung ứng cho chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng cơ sở của ý chí chính là sự quan tâm hay sự dự phóng. Nỗ lực mà ta dùng để vận hành ý chí cũng chính là nỗ lực được huy động trong sự quan tâm; sự căng thẳng trong ý chí cũng chính là sự căng thẳng trong việc huy động ý thức - tức sự căng thẳng của việc tập trung quan tâm”.
Phương thế thông thường nhất và quan trọng nhất qua đó ta thể hiện sự quan tâm chính là lắng nghe. Chúng ta bỏ ra rất nhiều thời gian để lắng nghe - nhưng phần lớn thì giờ đó bị hoang phí - bởi vì nói chung đa số trong chúng ta lắng nghe rất dở. Một chuyên viên tâm lý công nghiệp nọ có lần nêu nhận định rằng lượng thời gian mà chúng ta dành để dạy cho trẻ em một số môn học ở trường xem ra tỉ lệ nghịch với mức độ mà về sau chúng vận dụng các môn ấy khi chúng trưởng thành. Chẳng hạn một nhà điều hành doanh nghiệp mỗi ngày bỏ ra không tới một giờ để đọc sách, khoảng hai giờ để nói chuyện và khoảng tám giờ để lắng nghe. Thế nhưng ở trường, chúng ta dành một lượng lớn thời gian để dạy trẻ em đọc, chỉ dành một ít thời gian để dạy chúng nói và hầu như không dành chút thời gian nào để dạy cho chúng biết lắng nghe. Tôi không có ý nói rằng chúng ta cần phải điều chỉnh thời lượng các môn học sao cho tỉ lệ thuận với mức độ mà các môn ấy được vận dụng ngoài đời. Nhưng tôi cho rằng sẽ rất tốt nếu chúng ta trang bị cho trẻ em một số chỉ dẫn liên quan đến việc lắng nghe - không phải để làm cho việc lắng nghe trở nên dễ dàng nhưng là để giúp bọn trẻ hiểu rằng lắng nghe không phải là một chuyện dễ. Lắng nghe tốt là một việc khó, vì nó đòi phải đổ dồn quan tâm. Vì người ta không nhận ra điều này hoặc vì họ không sẵn lòng để tập trung quan tâm nên đa số người ta lắng nghe rất dở.
Cách đây không lâu, tôi tham dự một buổi thuyết trình của một diễn giả nổi tiếng; ông ta nói về một khía cạnh trong mối quan hệ giữa tâm lý học và tôn giáo - một đề tài mà từ lâu rồi tôi rất thích. Vì là đề tài ưa thích nên tôi cũng có sẵn sự hiểu biết ít nhiều - và tôi lập tức nhận ra rằng vị diễn giả này thực sự là một đầu óc thượng thặng.
Tôi cũng cảm thấy ông ta hết sức nhiệt tình khi nói chuyện: ông khéo léo vận dụng nhiều ví dụ cụ thể để chuyển đạt những ý niệm rất trừu tượng nhằm giúp thính giả dễ hiểu điều ông trình bày. Vì thế tôi đã lắng nghe ông với tất cả khả năng chăm chú của mình. Mồ hôi rịn ra ướt đẫm mặt tôi trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ ngồi nghe ông nói, dù đó là một thính phòng máy lạnh. Lúc ông kết thúc bài thuyết trình, tôi nghe đầu mình nhức như búa bổ; các cơ bắp ở phía sau cổ tê cứng do mình quá cố sức tập trung. Tôi cảm thấy như mình đã vắt hết sức lực và bây giờ hoàn toàn kiệt quệ. Dù tôi ước lượng mình chỉ nắm hiểu được chừng 50 phần trăm những gì ông nói, tôi vẫn kinh ngạc và thú vị nhận thấy rằng buổi chiều ấy con người tài hoa đó đã trao cho mình cả một kho tàng. Sau buổi thuyết trình, tôi rảo bước lang thang qua những hàng ghế thính giả - (toàn là những tên tuổi uy tín trong giới làm văn hóa) - để nghe các nhận xét của họ. Nói chung, họ thất vọng. Vì biết rõ danh tiếng của người thuyết trình, họ vốn kỳ vọng nhiều hơn những gì họ vừa được trình bày cho. Họ cảm thấy bài nói chuyện của diễn giả vừa trúc trắc vừa lộn xộn. Họ những tưởng ông ấy diễn thuyết tuyệt vời lắm chứ không tẻ nhạt như thế.
Một bà nọ còn điềm nhiên buông gọn lỏn: “Tôi chẳng nhớ ông ta nói cái gì cả!”
Khác hẳn với các thính giả ấy, tôi đã nghe và ghi nhận được rất nhiều từ bài nói chuyện của vị diễn giả - chỉ vì tôi đã sẵn lòng làm cái công việc lắng nghe ông ta. Tôi đã sẵn lòng lắng nghe như thế vì hai lý do: một là, vì tôi nhìn nhận uy tín của ông và do đó tôi tin tưởng rằng những gì ông nói sẽ rất có giá trị; hai là, vì tôi vốn quan tâm tới đề tài nên tôi hết sức muốn lắng nghe những gì ông trình bày để làm giàu vốn hiểu biết cũng như làm phong phú tinh thần của mình. Sự lắng nghe của tôi đối với ông là một hành vi của tình yêu. Tôi yêu ông vì tôi cảm nhận ông là một con người có giá trị và đáng dành quan tâm; và tôi yêu chính mình vì tôi sẵn lòng làm việc để phục vụ cho sự lớn lên của chính mình. Vì ông ta là thầy và tôi là trò - ông là người cho và tôi là người nhận - nên tình yêu của tôi chủ yếu có tính quy ngã, tôi lưu tâm tới việc nhận lãnh từ ông hơn là việc có thể trao tặng bất cứ cái gì cho ông. Tuy nhiên, trong thực tế ông hoàn toàn có thể cảm nhận thấy sự nhiệt tình chú ý của tôi, tình yêu của tôi - giữa thính phòng chen kín thính giả ấy - và như vậy ông cũng có thể nhận được một cái gì đó từ tôi. Tình yêu bao giờ cũng là một con đường hai chiều, một cuộc giao thoa trong đó người nhận cũng cho và người cho cũng nhận.
Trên đây là một ví dụ về sự lắng nghe trong tư cách người nhận.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét hiện tượng thông thường nhất của việc lắng nghe trong tư cách của người cho - đó là việc lắng nghe các em bé. Lắng nghe các em bé cũng có nhiều trường hợp, tùy thuộc vào độ tuổi của đứa trẻ. Ở đây ta hãy xét trường hợp một đứa bé sáu tuổi - độ tuổi bắt đầu vào trường cấp một. Một đứa trẻ sáu tuổi, nếu có cơ hội, sẽ nói huyên thuyên không dứt đủ thứ chuyện.
Cha mẹ sẽ đối phó như thế nào với những cuộc tán phét bất tận này?
Có lẽ cách dễ nhất là quát bảo nó câm mồm lại. Quả thực có những gia đình mà trong đó trẻ em dường như không được phép ăn nói; người ta phớt lơ tiếng nói của con nít một trăm phần trăm. Trong những gia đình ấy, đứa trẻ câm lặng và lủi thủi nép vào góc tối, trân trối nhìn người lớn một cách trầm uất và xa vắng. Cách thứ hai để đối phó với đứa trẻ tán chuyện là cứ để mặc nó nói nhưng không lắng nghe nó; như vậy đứa bé đang nói chuyện với cái bàn, cái ghế hay đang lẩm bẩm với chính nó chứ không phải đang nói chuyện với cha mẹ. Câu chuyện của đứa trẻ chỉ là một mớ tiếng ồn không hơn không kém, mớ tiếng ồn ấy có thể gây hay không gây bực bội cho cha mẹ nó. Cách thứ ba là giả vờ nghe, nhưng vẫn tiếp tục làm công việc đang làm hay theo đuổi dòng tư tưởng mà mình đang suy nghĩ.
Đứa trẻ cứ nói; còn cha mẹ cứ làm bộ như đang lắng nghe, thỉnh thoảng “ờ... ờ...” vài tiếng với kẻ độc thoại - những tiếng “ờ... ờ...” này có khi rơi đúng lúc, có khi không. Cách thứ tư là nghe một cách có lựa lọc, đây cũng là một dạng giả vờ nghe. Khi đứa trẻ nói, cha mẹ chỉ vểnh tai nghe nếu có hy vọng rằng nó sắp nói cái gì đó hay hay.
Những cha mẹ này muốn đãi cát tìm vàng một cách ít tốn công sức nhất. Khổ nỗi là khả năng sàng lọc của đầu óc con người thường không mấy sắc bén - và kết quả là người ta thường để lọt sàng rất nhiều vàng và cái mà họ nhận được thì phần lớn chỉ là cát. Cách thứ năm, cũng là cách cuối cùng, là thực sự lắng nghe đứa trẻ, trao cho đứa trẻ sự chú ý hoàn toàn và đầy đủ của mình, cân nhắc từng tiếng và hiểu từng câu nói của nó.
Năm cách đáp ứng với câu chuyện của đứa trẻ vừa liệt kê trên được xếp theo thứ tự tăng dần sự nỗ lực - cách thứ năm, thật sự lắng nghe, đòi hỏi cha mẹ dành toàn bộ năng lực của mình để lắng nghe đứa trẻ so với những cách kia ít đòi năng lực hơn hoặc không đòi một năng lực nào. Có thể bạn đọc mường tượng rằng tôi sẽ khuyên các cha mẹ luôn chọn cách thứ năm - nghĩa là luôn luôn thực sự lắng nghe con trẻ của họ. Khó lắm, không được đâu! Một đứa bé sáu tuổi sẽ bi bô suốt ngày, nếu cha mẹ luôn luôn thực sự lắng nghe nó thì chẳng còn thời giờ đâu để làm bất cứ chuyện gì khác. Hai nữa, việc lắng nghe thực sự đòi cha mẹ tiêu tốn nhiều năng lực đến độ sẽ kiệt sức, không còn có thể làm gì khác. Cuối cùng, việc nghe như thế sẽ cực kỳ chán, vì câu chuyện của đứa bé sáu tuổi thường chỉ là những câu chuyện chán phè. Vì thế, điều cần thiết là phải có một giải pháp quân bình từ cả năm cách nói trên. Có những lúc cần phải bảo đứa trẻ im miệng, chẳng hạn trong những trường hợp cần phải tập trung hết sức vào một chuyện khác - mà câu chuyện của đứa trẻ có thể làm người ta chia trí, hoặc trong trường hợp đứa trẻ tỏ ra cố ý quấy rầy. Thường thì những đứa trẻ sáu tuổi nói chỉ vì muốn nói thôi - và người lớn không nhất thiết phải chú tâm đến nó vì thậm chí nó cũng không cần được chú tâm: nó lấy làm vui trong việc bi bô với chính nó. Nhiều trường hợp khác, đứa trẻ không hài lòng với việc duy chỉ nói chuyện với chính nó; nó muốn giao tiếp với cha mẹ - và nhu cầu của đứa trẻ đôi khi có thể được đáp ứng bằng việc giả vờ lắng nghe. Đó là những khi mà đứa trẻ cần tiếp xúc chỉ để cảm nhận sự thân mật gần gũi mà nó cần. Hơn nữa, chính đứa trẻ cũng thường chỉ liên lạc với cha mẹ một cách lựa lọc - bằng chứng là chúng thường khởi xướng và chấm dứt các cuộc nói chuyện một cách bất chợt, vì thế chúng cũng dễ hiểu nếu cha mẹ chúng lắng nghe một cách có lựa lọc. Chúng hiểu đó là quy luật sòng phẳng của cuộc chơi. Như vậy, cha mẹ không phải luôn luôn bị đòi hỏi phải thực sự lắng nghe đứa trẻ. Một trong những công việc cực kỳ phức tạp của cha mẹ là phải tạo một thế quân bình hết sức có thể giữa sự lắng nghe và không lắng nghe - để đáp ứng phù hợp với nhu cầu của đứa trẻ trong từng trường hợp.
Sự quân bình như vậy thường hiếm thấy, bởi vì nhiều cha mẹ không đủ sẵn lòng và không đủ khả năng để bỏ công sức ra mà thực sự lắng nghe đứa trẻ - dù cho thỉnh thoảng đứa trẻ mới có nhu cầu cần được cha mẹ thực sự lắng nghe. Phần lớn các cha mẹ đều như thế. Nhiều khi họ tưởng rằng họ đang thực sự lắng nghe trong khi thực ra họ chỉ lắng nghe một cách giả vờ hoặc một cách có lựa lọc thôi. Như vậy họ đang tự đánh lừa chính mình, họ không muốn nhìn nhận rằng họ lười biếng. Vì sự lắng nghe thực sự - dù chỉ trong chốc lát - vẫn đòi nơi người ta một nỗ lực lớn lao. Trước hết, nó đòi hỏi sự hoàn toàn tập trung. Bạn không thể lắng nghe ai một cách thực sự mà vẫn đồng thời làm một công việc nào đó khác. Nếu cha mẹ muốn thực sự lắng nghe con mình, họ phải gác qua một bên mọi công việc khác. Thời giờ ấy phải được dành riêng cho đứa trẻ, thời giờ ấy là của đứa trẻ. Nếu bạn không sẵn lòng gác qua một bên mọi sự, kể cả những lo lắng bận tâm của bạn, thì bạn không thể nào thực sự lắng nghe. Đàng khác, việc lắng nghe một đứa trẻ sáu tuổi đòi hỏi một nỗ lực lớn hơn nhiều so với việc lắng nghe một diễn giả tài hoa. Câu nói của một đứa bé trúc trắc chứ không trơn tru; nó thường ngọng nghịu chỗ này, cà lăm chỗ kia - vì thế phải vất vả lắm mới có thể hiểu được nó muốn nói gì. Hơn nữa, đứa trẻ thường nói về những chuyện lẩn thẩn, không có sức thu hút sự quan tâm của người lớn - (trong khi đó, một diễn giả thường thu hút chúng ta ngay chính bởi đề tài mà người ấy trình bày-). Nói tóm lại, nghe một em bé sáu tuổi nói chuyện là điều rất chán, và thật cực kỳ khó việc hoàn toàn tập trung chú ý để lắng nghe. Do đó, việc lắng nghe một đứa trẻ đúng là một công việc của tình yêu. Đó là một công việc mà nếu không có động cơ yêu thương thúc đẩy thì không cha mẹ nào có thể làm được.
Nhưng tại sao phải chịu sự phiền toái ấy? Tại sao phải dồn hết tâm lực vào những câu chuyện vớ va vớ vẩn của một đứa bé sáu tuổi? Trước hết, bởi vì khi bạn sẵn lòng chịu khó như thế, bạn đang chứng minh một cách hùng hồn nhất với đứa trẻ rằng bạn trân trọng nó. Khi ta dành cho đứa trẻ sự trân trọng không kém sự trân trọng đối với một diễn giả nổi tiếng, đứa trẻ sẽ nhận hiểu rằng nó có giá trị - và do đó nó sẽ có cảm thức tự trọng. Để dạy cho con cái bạn biết tự trân trọng mình thì cách tốt nhất và duy nhất mà bạn phải làm là hãy trân trọng chúng nó. Đàng khác, khi đứa trẻ càng cảm thấy rằng nó có giá trị, nó sẽ càng nói về những điều có giá trị. Hơn nữa, bạn càng lắng nghe đứa trẻ, bạn sẽ càng nhận ra rằng trong câu chuyện có vẻ lẩn thẩn của nó, đứa trẻ vẫn thực sự có những điều rất có giá trị để nói với bạn. “Ra đường nghe bà già, về nhà nghe con nít” là một câu ngạn ngữ hoàn toàn có cơ sở khôn ngoan. Hãy lắng nghe đứa con nhỏ của bạn và bạn sẽ nhận ra nó là một con người không tầm thường chút nào. Bạn càng nhận ra nó không tầm thường, bạn sẽ càng học hỏi được nhiều hơn. Một lý do nữa để bạn lắng nghe đứa trẻ: việc lắng nghe đứa trẻ giúp bạn hiểu biết hơn về nó và - nhờ đó - bạn có thể dạy nó hữu hiệu hơn. Chỉ vì không hiểu biết đủ về con cái mình mà nhiều cha mẹ thường dạy chúng những điều chúng chưa thể học hoặc những điều mà chúng đã biết tỏng rồi - (có khi chúng còn biết rõ hơn cha mẹ chúng nữa!). Cuối cùng, hễ đứa trẻ càng biết rằng cha mẹ nó trân trọng nó, đánh giá cao nó - thì nó sẽ càng sẵn lòng lắng nghe và đánh giá cao cha mẹ nó. Và bạn càng hiểu biết con bạn, bạn sẽ càng có khả năng dạy bảo nó một cách phù hợp; sự dạy bảo của bạn càng phù hợp thì con bạn càng sẵn lòng học tập theo sự dạy bảo của bạn; con bạn càng sẵn lòng học tập, nó sẽ càng trở nên xuất sắc hơn... Đó quả là một tiến trình luân lưu đối tác, một tiến trình tương tác của tình yêu. Đó không phải là một vòng tròn luẩn quẩn thoái hóa mà là một tiến trình phát triển đầy sáng tạo. Giá trị tạo giá trị. Tình yêu sinh tình yêu. Đó là một điệu luân vũ của tình yêu trong đó cha mẹ và con cái nối vòng tay cùng nhau bước tới theo nhịp dồn càng lúc càng nhanh hơn.
Trên đây chúng ta đã đề cập đến việc lắng nghe một đứa trẻ lên sáu. Đối với trẻ em ở các tuổi nhỏ hơn hay lớn hơn, mức quân bình thích đáng giữa việc lắng nghe và không lắng nghe sẽ thay đổi - tuy nhiên, các tiến trình vẫn cơ bản giống nhau. Với các em bé nhỏ tuổi hơn, việc liên lạc chủ yếu không dùng lời - song vẫn đòi cha mẹ những lúc phải tập trung hoàn toàn. Bạn không thể đùa giỡn với đứa trẻ lên ba của bạn một cách ra trò nếu tâm trí bạn đang lan man ở một chỗ khác. Và nếu bạn chỉ có khả năng chơi với đứa bé bằng một nửa tấm lòng thì bạn đừng ngạc nhiên khi nhận ra rằng đứa con mình chỉ có... nửa tấm lòng: nó hời hợt trong mọi chuyện! Trẻ càng lớn càng ít đòi cha mẹ dành thời gian lắng nghe nó hơn, song nó cần được cha mẹ thực sự lắng nghe nhiều hơn. Càng lớn lên, trẻ càng bớt nói chuyện vớ vẩn; và mỗi khi chúng nói, chúng muốn cha mẹ lắng nghe với sự tập trung chú ý nhiều hơn so với hồi chúng còn bé.
Nhu cầu được cha mẹ lắng nghe là một nhu cầu không bao giờ mất, dù khi người ta đã trưởng thành. Một chuyên gia ba mươi tuổi rất giỏi giang nọ phải nhận trị liệu tâm lý vì anh bị đè nặng bởi những mối ưu tư liên quan đến khuynh hướng đánh giá thấp chính mình.
Anh đã trải qua vô số trường hợp bị phũ phàng bởi cha mẹ anh - cũng là những chuyên gia rất giỏi giang, vì họ không sẵn lòng lắng nghe anh hoặc chỉ xem những điều anh nói là tầm phào, lẩn thẩn.
Đau đớn nhất trong tất cả những hồi ức tăm tối ấy là câu chuyện xảy ra hồi anh hai mươi hai tuổi, lúc anh viết một luận án tốt nghiệp rất công phu và đầy ấn tượng vốn đã đem lại cho anh tấm bằng tốt nghiệp hạng xuất sắc. Sẵn nuôi nhiều kỳ vọng nơi con trai mình, cha mẹ anh tỏ ra hết sức sung sướng trước thành tích đầy vinh dự mà anh gặt hái được. Thế nhưng, điều xảy ra là cho dù anh cố ý để tập luận án ấy suốt một năm trong phòng khách, ở chỗ dễ nhìn thấy nhất, ngầm tỏ ý rằng “bố mẹ nên đọc qua cho biết” - cả ông bố lẫn bà mẹ anh đều chẳng bao giờ buồn ghé mắt đến nó cả. Anh tâm sự: “Nếu tôi lên tiếng khẩn nài cha mẹ tôi đọc tập luận án ấy, nếu tôi van xin ông bà bỏ chút thời giờ đọc qua cho biết những điều tâm huyết của tôi thì rất có thể ông bà đã đọc nó và đã trầm trồ khen ngợi tôi về nó.
Nhưng làm sao tôi có thể chấp nhận năn nỉ như thế được! Thật là xấu hổ khi người ta đã hai mươi hai tuổi đời rồi mà còn phải van xin sự quan tâm của bố mẹ - hơn nữa, có nghĩa gì đâu sự quan tâm do bởi van xin mà có!”
Việc thực sự lắng nghe, việc hoàn toàn tập trung chú ý vào người khác bao giờ cũng là một biểu hiện của tình yêu. Và để có thể lắng nghe thực sự, người ta không thể không tạm gác mọi sự khác qua một bên - gác qua một bên những thành kiến, những lối suy nghĩ, những khắc khoải cố hữu của mình để cảm nhận người đối diện và thâm nhập hết sức có thể vào trong thế giới của người ấy. Sự hiệp nhất ấy giữa người nói và người nghe quả thực là một sự mở rộng và triển nở bản ngã. Và sự hiệp nhất này bao giờ cũng đem lại cho người ta những nhận hiểu mới mẻ chưa từng có. Hơn nữa, vì việc lắng nghe thực sự luôn đòi người ta tạm thời quên mình, nên nó cũng chính là việc tạm thời hoàn toàn chấp nhận người khác. Khi người khác cảm thấy được ta chấp nhận như vậy, họ sẽ bớt rụt rè và thêm cởi mở để chia sẻ với ta những nỗi niềm sâu lắng trong nội tâm của họ. Như vậy, người nói và người nghe bắt đầu trân trọng nhau hơn, và điệu luân vũ của tình yêu cứ thẳng đà diễn tiến. Việc gác qua một bên mọi chuyện khác để hoàn toàn tập trung chú ý vào người nói chuyện là một việc đòi hỏi nhiều năng lực đến nỗi người ta không thể làm được nếu không có tình yêu, nếu không có ý chí muốn mở rộng con người mình ra để cả mình lẫn người đều được triển nở. Chúng ta thường chẳng mấy khi có đủ năng lực cần thiết ấy. Có những lúc chúng ta cảm thấy như mình đang hết mình lắng nghe song kỳ thực là chúng ta thường chỉ lắng nghe một cách có lựa lọc thôi: chúng ta lắng nghe với một hệ quy chiếu có sẵn trong đầu, chúng ta có sẵn ý đồ, chúng ta tìm cách lèo lái cuộc chuyện theo hướng mình thích...
Lắng nghe thực sự là hành vi của tình yêu, vì thế hôn nhân là mảnh đất số một để người ta biểu hiện hành vi này. Thế nhưng, phần lớn các đôi vợ chồng lại xem ra không bao giờ biết lắng nghe nhau thực sự. Chính vì thế, khi các đôi vợ chồng đến với chúng tôi để được tư vấn hay trị liệu tâm lý, chúng tôi thường phải nhấn mạnh hàng đầu việc giúp cho họ biết lắng nghe. Và chúng tôi cũng thường thất bại, vì những đòi hỏi của việc thực sự lắng nghe thường lớn hơn nhiều so với mức sẵn lòng đáp ứng của họ. Các đôi vợ chồng thường trố mắt ngạc nhiên, thậm chí hoảng sợ, khi chúng tôi đề nghị rằng họ nên ấn định trước trong thời biểu những giờ để hai người nói chuyện với nhau. Điều này thật có vẻ gượng gạo, gò bó và thiếu tự nhiên làm sao! Thế nhưng làm sao người ta có thể lắng nghe thực sự nếu họ không dành riêng thì giờ cho nó và không dàn xếp các điều kiện phù hợp cho nó? Làm sao bạn có thể lắng nghe được khi bạn đang lái xe, đang nấu ăn, đang mệt mỏi buồn ngủ hoặc đang trong tình trạng gấp rút với chuyện gì đó? “Tình yêu” du dương lãng mạn thì nhàn nhã, và các đôi vợ chồng thường ngại phải chịu nỗi vất vả của việc lắng nghe và của tình yêu đích thực. Nhưng nếu cuối cùng họ dám chấp nhận sự vất vả ấy, họ sẽ hái được những quả ngọt không ngờ. Biết bao lần chúng tôi nghe các đôi vợ chồng nói với nhau trong niềm vui đích thực - khi họ đã bắt đầu biết lắng nghe nhau: “Chúng mình đã cưới nhau ngót ba chục năm rồi mà cho đến hôm nay chúng mình mới hiểu về nhau!” Khi điều này xảy ra, cuộc hôn nhân của hai người bắt đầu thăng tiến.
Đành rằng người ta có thể cải thiện khả năng lắng nghe của mình bằng cách tập tành từ từ, song việc lắng nghe thực sự mãi mãi vẫn còn là một công việc đòi hỏi đầy nỗ lực. Một bác sĩ tâm thần tốt phải là một bác sĩ tâm thần có khả năng lắng nghe con bệnh của mình, thế nhưng trong cuộc tiếp xúc trị liệu năm mươi phút, gần cả chục lần tôi bất chợt nhận ra rằng mình không đang hoàn toàn tập trung lắng nghe con bệnh của mình. Đôi khi tôi hoàn toàn “mất hẳn liên lạc” với con bệnh đang ngồi trước mặt mình - để rồi phải thú nhận: “Xin bạn thứ lỗi; tôi vừa mới để đầu óc mình nghĩ lan man nên đã không nắm bắt đầy đủ bạn vừa nói gì. Xin bạn vui lòng lặp lại điều bạn mới vừa nói!” Thật thú vị là các bệnh nhân thường không cảm thấy khó chịu trong những trường hợp như vậy. Trái lại, họ dường như trực giác hiểu rằng việc một người nhạy cảm nhận ra mình chia trí chính là một dấu chứng cho thấy đó là người lắng nghe thực sự. Việc bạn bất chợt nhận ra bạn đang chia trí cho thấy rằng bạn đã dành sự chú ý đầy đủ trong phần lớn câu chuyện của tôi. Và trong một cuộc trị liệu tâm lý, bệnh nhân được chữa trị đáng kể trong chính cảm thức rằng mình đang được y sĩ của mình thực sự lắng nghe mình. Trong gần một phần tư các ca điều trị của tôi, dù bệnh nhân là người lớn hay trẻ em, chúng tôi cũng ghi nhận thấy những tiến triển đáng kể diễn ra chỉ trong vòng vài tháng trị liệu đầu tiên - ngay cả khi mọi nguồn gốc bệnh trạng chưa được phát hiện ra và chưa có được kết luận gì sáng sủa trong bệnh án. Hiện tượng ấy có thể có nhiều lý do, nhưng tôi dám khẳng định rằng lý do chủ yếu nhất là vì các bệnh nhân ấy cảm thấy mình được thực sự lắng nghe; có người trong họ đã nhiều năm rồi không được thực sự lắng nghe, cũng có thể có người cảm thấy mình chưa bao giờ được thực sự lắng nghe như vậy.
Lắng nghe là cách biểu hiện thiết yếu nhất của sự quan tâm.
Song cũng có những dạng khác nữa không kém quan trọng để người ta biểu hiện quan tâm trong các mối quan hệ yêu thương, nhất là đối với trẻ em. Một trong những dạng đó là cùng chơi với trẻ. Độ tuổi nào của trẻ cũng có những trò chơi phù hợp: chơi đố vui, chơi trốn tìm, chơi xếp giấy, chơi cầu lông, chơi đá banh, chơi nhảy dây, v.v... Đọc sách cho trẻ nghe cũng là một cách quan tâm đến trẻ. Giúp trẻ làm bài tập ở nhà cũng là quan tâm. Các sinh hoạt gia đình có vai trò rất quan trọng: đi xem phim, đi picnic, đi dạo, đi hội chợ, v.v... Có một số dạng quan tâm chỉ là những việc thuần túy chăm sóc cho đứa trẻ, chẳng hạn ngồi trên bãi biển để trông nom một đứa bé bốn tuổi hay lái xe chở bọn choai choai chạy lòng vòng theo yêu cầu của chúng... Dù hình thức nào đi nữa, tất cả các biểu hiện quan tâm đều có cùng một đặc điểm chung: đó là dành thời gian cho đứa trẻ. Một cách căn bản, quan tâm đến một người gắn liền với việc dành thời gian cho người đó; và chất lượng của sự quan tâm phụ thuộc vào mức độ tập trung trong suốt thời gian ấy. Nếu biết sử dụng thật tốt những thời gian dành cho đứa trẻ, cha mẹ sẽ có vô số cơ hội để quan sát con mình và hiểu biết rõ hơn về nó: Nó phản ứng như thế nào khi thắng cuộc, khi thua cuộc? Nó làm bài tập của nó như thế nào, nó tiếp thu nhanh hay chậm? Nó thích những gì và không thích những gì? Trong những trường hợp nào nó thường tỏ ra can đảm và trong những trường hợp nào thì nó dễ nhát sợ?... Tất cả đều là những mẩu thông tin cần thiết cho bất cứ cha mẹ nào biết yêu thương. Dành thời gian cho trẻ, cha mẹ cũng có vô số cơ hội để dạy cho nó các kỹ năng và tập cho nó quen với các nguyên tắc kỷ luật.
Cùng sinh hoạt với trẻ để quan sát và sửa dạy nó cũng chính là nguyên tắc căn bản của tiến trình trị liệu tâm lý cho trẻ em; và một nhà trị liệu tâm lý giỏi bao giờ cũng có khả năng hòa nhập rất tốt trong các trò chơi với trẻ để rút ra những ghi nhận hữu ích và để có những biện pháp trị liệu thích đáng và kịp thời.
Ngồi trông coi một đứa bé bốn tuổi trên bãi biển, chú ý lắng nghe câu chuyện không đầu không đuôi mà một trẻ sáu tuổi đang say sưa kể, dạy cho một thiếu niên lái xe, lắng nghe vợ (hay chồng) mình kể những chuyện linh tinh trong ngày ở sở... Tất cả những việc đó đều thường chán ngấy, phiền phức và hao tổn sức lực - bởi đó là những công việc hẳn hoi. Bạn sẽ không làm những việc ấy nếu bạn lười biếng. Nếu bạn ít lười hơn, bạn sẽ làm thường xuyên hơn và làm tốt hơn. Vì tình yêu là công việc nên lười biếng có nghĩa là không yêu.
Chủ đề về sự lười biếng là một chủ đề rất quan trọng. Nó bàng bạc trong suốt phần thứ nhất của quyển sách này liên quan đến chủ đề quy phạm. Nó cũng bàng bạc trong phần này, phần nói về tình yêu.
Trong phần cuối, khi đã có một nhãn giới sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ đặc biệt tập trung tìm hiểu về sự lười biếng.
Hành vi mở rộng chính mình ra - tức hành vi của tình yêu - đòi hỏi một sự đi ra đối lập lại với tính cách ù lì lười biếng và cũng là hành vi vượt qua nỗi sợ. Sau khi đã đề cập đến tình yêu xét như công việc, bây giờ ta hãy tìm hiểu tình yêu xét như lòng can đảm. Khi ta mở rộng bản ngã mình ra, bản ngã của ta sẽ đi vào một vùng đất mới mẻ và xa lạ. Bản ngã của ta sẽ trở thành một bản ngã mới và khác. Ta làm những điều mà mình không quen làm. Ta thay đổi. Thay đổi, trở nên khác, đi đến chỗ khác, nghĩ và làm khác... bao giờ cũng là một kinh nghiệm đầy run sợ. Xưa nay đã thế và mãi mãi về sau này sẽ vẫn thế. Có nhiều cách để người ta đối phó với nỗi sợ nầy, song không bao giờ có thể tránh được nó nếu người ta quả thật bước vào cuộc thay đổi. Can đảm không phải là không sợ, nhưng là vẫn hành động mặc dù mình sợ. Can đảm là dù sợ vẫn bước ra đối mặt với cái mà mình không hề biết, là lao tới tương lai. Sự thăng tiến tinh thần, tức tình yêu - ở một mức nào đó - luôn luôn đòi người ta phải có lòng can đảm, nghĩa là dám liều. Chúng ta hãy tìm hiểu xem tại sao trong tình yêu có bao hàm khía cạnh liều.
Nếu bạn là người đi nhà thờ đều đặn, rất có thể bạn nhận thấy một phụ nữ ngoài bốn mươi tuổi. Chủ nhật nào chị cũng đến trước giờ lễ đúng năm phút và lẳng lặng ngồi vào đúng chỗ ngồi ấy - chỗ ngồi sát trong góc ở hàng ghế sau cùng. Lễ xong, chị rón rén thoắt ra cửa và bước nhanh ra về trước mọi người. Giá bạn thử đuổi theo kịp người phụ nữ ấy và mời chị ghé vào quán uống một tách cà phê, chị sẽ bối rối nhìn tránh đi chỗ khác, lịch sự cám ơn bạn và nói rằng chị đang bận có công chuyện gấp. Rồi chị tiếp tục bước nhanh hơn. Bạn thử tò mò kín đáo theo dõi người phụ nữ này để xem “công chuyện gấp” ấy của chị là gì: Chị đi thẳng về nhà - một căn hộ nhỏ với những tấm màn cửa luôn luôn che kín. Chị mở khóa cửa, lách vào và lập tức đóng sập cửa lại, khóa chốt. Suốt cả ngày Chủ nhật, cánh cửa ấy không bao giờ mở ra thêm một lần nào nữa. Nếu bạn có cách nào để tiếp tục điều tra về người phụ nữ ấy, bạn sẽ biết rằng chị làm một chân thư ký hạng quèn trong một sở làm rất đông nhân viên. Ở sở, hằng ngày chị lặng lẽ bàn giao những giấy tờ mà chị đã đánh xong, không nói không rằng. Chị dùng bữa trưa ngay tại bàn làm việc, một mình. Chị không có bạn bè gì cả. Cuối ngày làm việc, chị đi bộ về nhà. Trên đường về, chị ghé qua chỗ siêu thị tự phục vụ để sắm vài món. Sau khi chị bước vào nhà và đóng sập cửa lại, không ai sẽ trông thấy chị nữa cho đến sáng hôm sau - lúc chị rời nhà đi làm. Các chiều thứ bảy, chị đi tới rạp hát một mình để xem sô diễn của tuần.
Chị có máy truyền hình nhưng không có điện thoại. Dường như chị không bao giờ nhận thư từ. Giả sử bằng cách nào đó bạn nói chuyện được với người phụ nữ này và bình phẩm rằng lối sống của chị cô độc quá, chị sẽ cho bạn biết rằng chị thích sự cô độc ấy. Nếu bạn tò mò muốn biết chị có nuôi con vật nào trong nhà không chị sẽ kể rằng trước đây chị có một con chó rất cưng, nhưng nó đã chết tám năm rồi - và không có một con chó nào khác có thể thay thế chỗ của nó.
Người phụ nữ ấy là ai? Chúng ta không biết những uẩn khúc sâu kín trong lòng chị. Song chúng ta có thể biết rằng cả cuộc sống chị chỉ nhằm để tránh mọi sự liều lĩnh. Và khi cố giữ “an toàn” như vậy, chị đã không triển nở được bản ngã - trái lại, chị thu hẹp và nhốt kín mình lại đến độ gần như không còn hiện hữu. Chị không quyến luyến bất cứ một cái gì có sự sống. Đành rằng quyến luyến - như ta đã thấy - không phải là tình yêu (vì tình yêu vượt trên sự quyến luyến), nhưng tình yêu cũng cần có sự quyến luyến làm xúc tác cho nó ở bước khởi đầu. Ta chỉ có thể yêu một đối tượng khi đối tượng ấy - theo nghĩa nào đó - có tầm quan trọng đối với ta. Thế mà, sự quyến luyến nào cũng bao hàm khả năng bị hụt hẫng, phũ phàng. Khi bạn đi ra khỏi mình để đến với người khác, bạn luôn luôn có nguy cơ bị người ấy tránh né, khước từ. Và bấy giờ nỗi cô đơn của bạn càng tê tái gấp nhiều lần hơn. Yêu một con người hay một sinh vật (chẳng hạn con mèo, con chó, cây hoa...) là có nguy cơ bị mất nó, vì nó sẽ chết. Tín thác vào một người là nhận nguy cơ bị trở mặt. Đặt mình lệ thuộc vào một người là có nguy cơ bị bỏ chới với. Vậy đó, cái giá của quyến luyến là đau khổ. Một người quyết tâm tránh khổ là một người không dám rục rịch gì cả: không dám kết hôn, không dám có con, không dám hưởng niềm hoan lạc chăn gối, không dám ước vọng, không dám giao du kết bạn... Mà đó là những cái góp phần làm cho cuộc sống sinh động và triển nở - dù chiều kích nào - thì điều bạn gặp được cũng luôn bao hàm cả đau khổ lẫn niềm vui. Một cuộc sống tròn đầy cũng là một cuộc sống đầy những nỗi đau. Thế nhưng, không sống tròn đầy thì có nghĩa là không sống gì cả.
Yếu tính của sự sống là thay đổi. Cuộc sống là một tổng hợp những triển nở và hư hao. Chọn sống và phát triển có nghĩa là chọn thay đổi và chọn viễn ảnh chết. Người phụ nữ được mô tả trên kia quyết tâm sống một cuộc sống chật chội, khép kín bởi vì chị trải qua kinh nghiệm (hay những kinh nghiệm) đau thương với nỗi chết. Chị quyết định không nếm cảm nỗi đau ly tan đó nữa, dù phải trả giá bằng sự sống! Và khi cố tránh nỗi chết, chị phải tránh sự thay đổi và lớn lên. Chị chọn lối sống khước từ mọi cái mới, mọi cái bất ngờ. Chị sống như đã chết, không một liều lĩnh nào, không một đương đầu nào. Tôi đã đề cập rằng sự kiện người ta cố tránh né những nỗi đau cần thiết là một sự kiện nằm trong gốc rễ của mọi thứ tâm bệnh. Vì vậy thật không đáng ngạc nhiên khi đa số các bệnh nhân tâm thần (và có lẽ đa số người ta, vì đa số người ta là bệnh nhân tâm thần!) - dù trẻ hay già - đều gặp khó khăn khi giáp mặt với thực tại chết một cách trực tiếp và rõ ràng. Chỉ có điều đáng ngạc nhiên là cho đến nay cách sách vở về tâm thần mới chỉ đang bắt đầu khảo cứu về ý nghĩa của hiện tượng này. Nếu chúng ta có thể sống với cảm thức rằng sự chết luôn luôn đồng hành với mình, sự chết lúc nào cũng sánh vai mình - thì bấy giờ sự chết có thể trở thành “đồng minh” của chúng ta - theo cách nói của Don Juan. Không phải sự chết hết làm ta sợ, nhưng nó là đồng minh ở chỗ nó là một ông thầy dạy khôn tuyệt vời.
Sự chết không ngừng nhắc ta nhớ rằng mình chỉ có một thời gian hữu hạn để sống và yêu - nhờ đó ta sẽ biết sử dụng thời gian của mình một cách tốt nhất và sẽ biết sống cuộc sống mình một cách tròn đầy nhất. Ngược lại, nếu chúng ta không sẵn lòng giáp mặt với thực tại chết vốn đang sóng bước với mình, chúng ta sẽ từ chối không nghe những “lời dạy khôn” của nó - và ta khó có thể sống và yêu thương một cách sắc nét được. Khi ta lẩn tránh sự chết - tức lẩn tránh bản tính không ngừng biến dịch của sự vật - chính là ta đang quay lưng lại và nói “không” với sự sống!
Toàn thể cuộc sống, tự nó, là một chuyến đi liều; và ta càng sống yêu thương hơn, ta càng phải liều nhiều hơn. Trong số hàng ngàn - thậm chí hàng triệu - sự liều lĩnh của cuộc đời mà ta phải dấn bước vào, có lẽ cái liều lớn nhất là dám liều lớn lên. Lớn lên nghĩa là bước từ tình trạng ấu trĩ sang tình trạng trưởng thành. Thật ra phải gọi đó là một cú nhảy kinh khủng đúng hơn là một bước. Nhiều người đi qua cả cuộc đời mà không bao giờ dám thực hiện cú nhảy kinh khủng này. Nhiều người trông diện mạo bên ngoài có vẻ như là người lớn, thậm chí có vẻ như là những người lớn rất thành đạt, song đa số những “người lớn” ấy - xét về mặt tâm lý - vẫn còn mãi là con nít cho đến lúc xuống mồ. Họ không bao giờ thực sự dám tách mình ra khỏi cha mẹ và ra khỏi quyền lực của cha mẹ. Đã từng trăn trở nhiều với vấn đề này, tôi muốn minh họa yếu tính của sự trưởng thành và tầm vóc ghê gớm của bước liều mà nó đòi hỏi bằng cách kể lại bước ngoặt quyết định mà chính bản thân mình đã bước qua hồi năm mười lăm tuổi - (thật may cho tôi, vì mười lăm tuổi là khá sớm!).
Cần nói ngay ở đây rằng dù hồi ấy tôi hoàn toàn ý thức khi thực hiện bước ấy, song khi làm thế, tôi hoàn toàn không ý thức rõ rằng mình đang bước một bước mang ý nghĩa trưởng thành. Lúc ấy tôi chỉ biết rằng mình đang nhảy vào một chỗ mà mình chưa từng biết.
Số là hồi mười ba tuổi, tôi rời gia đình để đi học nội trú ở Học Viện Phillips Exeter, một trường trung học danh tiếng bậc nhất. Anh trai tôi cũng đã nhập học ở đó trước tôi. Tôi biết rằng mình thật may mắn vì được làm học sinh của Phillips Exeter, vì vào Phillips Exeter có nghĩa là được cung ứng một nền giáo dục chất lượng nhất và có được bàn đạp tốt nhất để tiến xa nhất trên con đường khoa bảng của mình sau này. Tôi thầm cám ơn trời vì mình được sinh ra trong một gia đình khá giả và bố mẹ tôi có đủ khả năng đài thọ cho nền giáo dục tốt nhất và cũng tốn kém nhất ấy của tôi. Tự đáy lòng mình tôi cảm thấy rất yên tâm... Thế nhưng, không hiểu vì sao ngay trong những ngày đầu tiên ở Exeter, tôi bỗng cảm thấy vô cùng khổ sở. Tôi hoàn toàn không thể xác định tại sao mình khổ sở - cả hồi ấy lẫn cho tới bây giờ! Tôi chỉ cảm thấy mình không phù hợp: không hợp với thầy, với bạn, với bài vở, với nhà cửa, với sinh hoạt, với tất cả..!
Trong tình hình đó, xem ra tôi không thể làm gì khác hơn là cố gắng hết sức để thích nghi dần dần và tự điều chỉnh những bất ổn của mình với hy vọng sẽ càng ngày càng thích nghi hơn với nền giáo dục thuộc loại hảo hạng này. Và tôi đã cầm cự như thế suốt hai năm rưỡi. Chẳng có dấu hiệu gì sáng sủa hơn; ngược lại, tôi càng cảm thấy cuộc sống mình vô nghĩa và trục trặc trầm trọng. Trong năm cuối cùng ở đó, tôi chủ yếu tranh thủ để ngủ càng nhiều càng tốt, vì chỉ có giấc ngủ mới có thể đem lại cho tôi chút gì dễ chịu. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy rằng có lẽ chính trong những giấc ngủ ấy mà tôi đã một cách vô thức chuẩn bị cho bước nhảy quyết định mình sẽ thực hiện vào kỳ nghỉ mùa xuân năm đó. Vâng, khi về nhà vào dịp nghỉ xuân năm thứ ba, tôi đã tuyên bố rằng sẽ không trở lại trường nữa.
Bố tôi kịch liệt phản đối: “Nhưng con không thể bỏ trường. Đó là trường tốt nhất mà tiền bạc có thể mua. Con không thấy rằng hành động nông nổi như vậy sẽ tai hại như thế nào sao?”
“Con biết đó là một trường rất tốt”, tôi trả lời, “nhưng thưa bố, con sẽ không trở lại đó nữa”.
“Nếu có gì không ổn thì tại sao con không biết tự dàn xếp, tại sao con chỉ nghĩ đến chuyện rút lui?”, bố mẹ tôi hỏi.
“Con không rõ”, tôi ấp úng, “Con thậm chí không rõ tại sao mình ghét nó. Con chỉ biết rằng con ghét nó và con sẽ không trở lại đó nữa.”
“Hay nhỉ, vậy thì con sẽ làm gì? Xem chừng con đang muốn đùa với tương lai của bản thân con đấy. Nói đi, con có ý định sẽ làm gì?”
Một lần nữa, tôi chỉ biết mếu máo: “Con... không biết nữa. Nhưng con không thể trở lại trường được.”Bố mẹ tôi cảm thấy vấn đề thực sự nghiêm trọng. Ông bà quyết định đưa tôi đến bác sĩ tâm thần. Vị y sĩ tuyên bố rằng tôi bị suy sụp và đề nghị tôi nằm viện một tháng; tôi được cho một ngày để quyết định chấp nhận nằm viện hay không.
Đêm hôm đó là lần duy nhất trong đời tôi nghĩ đến chuyện tự tử.
Phải chăng tình trạng của tôi đúng là cần phải điều trị tâm thần? Tôi nghĩ vị y sĩ đã nói đúng khi xác định rằng tôi bị suy sụp. Anh tôi thích nghi được với Exeter, còn tôi đã không thích nghi được! Tôi hiểu rằng mọi trục trặc là do ở mình, tôi cảm thấy mình hoàn toàn không ổn, mình quá tệ, quá kém cỏi. Tệ hơn nữa, lúc ấy tôi còn ngờ có lẽ mình mất trí. Bố tôi đã chẳng bảo rằng tôi điên khi quyết định bỏ trường đó sao! Nếu tôi quay lại với Exeter, mọi sự sẽ yên ổn, đúng đắn, phù hợp, sáng sủa. Thế nhưng như vậy tôi không phải là tôi nữa! Trong sâu thẳm lòng mình, tôi biết đó không phải là nẻo bước của đời tôi. Nhưng nẻo bước nào mới là nẻo bước của mình? Nếu không quay lại với Exeter, trước mặt tôi sẽ hoàn toàn là mù mịt, bất quyết, bất ổn, vô định... Phải là người điên mới chọn con đường ấy!
Tôi cảm thấy thật khủng khiếp. Bỗng dưng, chính trong lúc tôi đang khắc khoải cực độ, từ trong vô thức tôi nghe như có tiếng nói với mình: “Sự yên ổn đích thực và duy nhất của đời sống chính là ở chỗ biết tích cực nếm cảm sự bất an của cuộc đời.” Cho dù khẳng định ấy có vẻ điên khùng và ngược ngạo, tôi vẫn thấy rằng mình xác tín như vậy. Tôi nghe dễ chịu hơn. Sáng hôm sau, tôi đến trả lời với vị y sĩ tâm thần rằng tôi sẽ không bao giờ trở lại với trường Exeter nữa và tôi sẵn sàng nhận sự điều trị của ông ta. Tôi đã dứt khoát nhảy bước nhảy vào vô định. Tôi đã nắm định mệnh đời mình trong bàn tay!
Tiến trình lớn lên thường diễn ra một cách từ từ, với vô số những bước nhảy nho nhỏ vào vô định. Chẳng hạn, một cậu bé tám tuổi lần đầu tiên dám cưỡi xe đạp đi tuốt xuống thị trấn mà trước đây cậu chưa bao giờ đặt chân đến, hay một thiếu nữ mười lăm tuổi lần đầu tiên hẹn hò với anh bạn trai. Quả thật khó có ai phủ nhận nỗi bồn chồn lo lắng ghê gớm trong những trường hợp như thế. Thử quan sát ngay cả những đứa trẻ lành mạnh nhất, bạn sẽ thấy nó không chỉ hăng hái mạo hiểm vào những điều mới lạ mà đồng thời vẫn có những biểu hiện rụt rè, do dự, muốn bám lấy cái an toàn của tình trạng lệ thuộc và ấu trĩ. Hơn nữa, bạn cũng có thể ghi nhận thấy tình trạng lưỡng phân này nơi một người lớn - cả nơi chính bạn - với đặc điểm cố hữu là bám thật chặt vào những gì xưa cũ, quen thuộc. Ở tuổi bốn mươi, tôi vẫn đang - hầu như mỗi ngày - gặp những cơ hội trong đó mình có thể liều lĩnh làm khác để lớn lên. Đành rằng tôi vẫn đang lớn lên, nhưng chắc chắn là tôi đã bỏ rất nhiều cơ hội để có thể lớn lên nhanh hơn nữa. Trong số những bước nhảy nhỏ mà chúng ta có cơ hội để thực hiện trong đời, cũng có một số bước nhảy thực sự rất lớn - như khi tôi bỏ học ở Exeter, tôi cũng bỏ cả một chuẩn mực sống và những tiêu chí giá trị mà mình đã được nuôi dạy từ trước cho đến bây giờ. Nhiều người đi qua cuộc đời mà không bao giờ có một bước nhảy nào đáng kể; vì thế cũng thật dễ hiểu tại sao nhiều người không bao giờ thực sự lớn lên. Dù dáng vẻ bên ngoài của họ có bệ vệ đến mấy đi nữa, họ vẫn là trẻ con đối với bố mẹ họ xét về mặt tâm lý. Họ sống bằng những giá trị tiền chế mà họ nhận từ cha mẹ họ. Họ hành động chủ yếu dựa vào sự tán thành hay không tán thành của cha mẹ (dù thậm chí cha mẹ họ đã chết và đã mục nát trong lòng đất bao nhiêu năm rồi). Họ không bao giờ dám nắm lấy định mệnh của mình trong bàn tay của chính mình.
Những bước nhảy lớn của cuộc đời thường xảy ra vào tuổi thành niên; tuy nhiên người ta cũng có thể thực hiện những bước nhảy như vậy ở bất cứ tuổi nào. Một phụ nữ ba mươi lăm tuổi - là mẹ của ba người con - sống với một ông chồng đầy khắc nghiệt và thô bạo.
Dần dần chị cay đắng nhận ra rằng việc chị lệ thuộc vào chồng và vào cuộc hôn nhân ấy không khác gì một cái chết mòn. Mọi cố gắng của chị nhằm thay đổi tính cách quan hệ giữa hai người đều bị chồng chị thẳng tay trấn dẹp. Với tất cả dũng cảm, chị đã quyết định ly thân khỏi chồng, chấp nhận mọi sự xỉa xói và hằn học của anh ta cũng như mọi búa rìu của dư luận. Chị dám một mình - cùng với con cái - đối mặt với một tương lai mù mịt và bất quyết. Để đổi lại, lần đầu tiên chị được giải phóng để mình có thể trở nên là mình. Một ông thương gia năm mươi hai tuổi nọ bị đau tim và bị suy sụp tinh thần trầm trọng, nhìn lại cả cuộc đời miệt mài bon chen kiếm tiền và tranh thủ địa vị của mình, ông thấy trống rỗng! Sau một thời gian khá lâu dành để hồi tâm phản tỉnh, ông nhận ra rằng tất cả những nỗ lực ấy trong cuộc sống của ông đều nhằm để làm cho mẹ ông thỏa lòng. Đó là một người mẹ đầy uy lực và ý chí thống trị trên ông. Ông đã cật lực làm việc không biết mệt mỏi cố sao cho được mẹ đánh giá là thành đạt. Giờ đây, lần đầu tiên trong đời, ông thử liều làm khác với điều mẹ ông kỳ vọng và đồng thời gây “sốc” cho vợ con ông - là những người vốn quen với lối sống xa hoa trưởng giả. Ông chuyển về miền quê sinh sống, mở một cửa hàng nhỏ buôn bán đồ cổ! Những thay đổi ấy, những bước nhảy chấn động ấy để khẳng định tính độc lập của mình bao giờ cũng gắn liền với niềm xót xa tê tái và đòi hỏi người ta phải hết sức can đảm - bất luận người ta đang ở tuổi nào.
Tiến trình trị liệu tâm lý thường đóng góp để đem lại những kết quả như thế. Thật vậy, để thực hiện được bước nhảy đầy phiêu lưu ấy, nhiều người đã tìm đến với tâm lý trị liệu - không phải vì khoa trị liệu này sẽ làm giảm tính phiêu lưu ấy cho họ nhưng vì nó có thể giúp họ có được can đảm và nó nâng đỡ lòng can đảm ấy của họ.
Trong tình yêu, việc mở rộng bản ngã bao giờ cũng là một tiến trình làm triển nở bản ngã trong những chiều kích mới mẻ - nhưng những thay đổi để lớn lên như vậy có còn ý nghĩa nào khác nữa không? Trước hết, các thay đổi của các nhân vật kể trên và mọi thay đổi tương tự đều đích thực là những hành vi yêu thương chính mình.
Chính vì tôi trân trọng giá trị của mình nên tôi không chấp nhận tiếp tục chịu khổ sở ngồi dưới mái trường không phù hợp với nhu cầu của mình. Chính vì người phụ nữ trên kia biết quan tâm tới bản thân nên chị đã từ chối chịu đựng lâu hơn nữa một cuộc hôn nhân hoàn toàn giam hãm tự do và đè bẹp nhân cách của chị. Chính vì người đàn ông thương gia ấy biết nghĩ đến bản thân nên ông dứt khoát không tiếp tục tự làm hao mòn chính mình nữa trong nỗ lực đáp ứng điều mong mỏi của mẹ ông. Thứ hai, tình yêu không chỉ đem lại động lực cho những thay đổi lớn lao ấy; tình yêu còn là điểm tựa cho lòng can đảm mà người ta cần có để dám liều lĩnh vào cuộc đổi thay.
Chính nhờ bố mẹ tôi yêu thương và tôn trọng tôi mà tôi - một thiếu niên - đã có đủ tự tin và can đảm để làm khác với những điều bố mẹ mình kỳ vọng và dám tách mình ra khỏi cái khuôn được chế sẵn cho mình. Dù tôi mơ hồ cảm thấy như mình điên rồ dại dột khi lội ngược dòng như vậy, tôi vẫn vượt qua được nỗi xao xuyến trong lòng chỉ vì cũng chính lúc ấy - trong sâu thẳm lòng mình - tôi cảm nhận mình là con người tốt, cho dù mình sẽ ra sao đi nữa. Khi dám nghĩ khác và làm khác - thậm chí dù một cách điên rồ - chính là tôi đang đáp lại thông điệp yêu thương mà bố mẹ tôi đã khắc ghi vào lòng tôi từ trước đó: “Con là một nhân vị đẹp đẽ và đáng yêu. Con hãy là con; tốt lắm! Bố mẹ sẽ yêu con bất kể con làm gì, miễn sao con luôn mãi là con.” Nếu không chắn chắn về tình yêu của bố mẹ - tình yêu được phản ảnh nơi chính tình yêu của tôi đối với bản thân tôi - thì rất có thể tôi đã chọn cái đã ổn định thay vì cái bất ổn, nghĩa là rất có thể tôi đã đi theo con đường mà bố mẹ tôi đề nghị dù phải hy sinh tính cách độc đáo của bản ngã mình. Cuối cùng, chỉ khi nào người ta đã nhảy vào khoảng bất quyết của trọn vẹn bản ngã mình, của tình trạng độc lập hoàn toàn trong chiều kích tâm lý và của cá vị tính độc đáo - bấy giờ người ta mới có được sự tự do đầy đủ để tiến lên cao hơn trong các nẻo đường trưởng thành tinh thần và mới có thể biểu hiện tình yêu trong những tầm mức sâu rộng nhất của nó. Bao lâu người ta lấy vợ lấy chồng, lập nghiệp hay sinh con đẻ cái để làm thỏa lòng cha mẹ mình hay bất cứ ai khác - kể cả để làm thỏa mãn kỳ vọng của xã hội xét như một toàn thể - thì bấy lâu sự dấn thân của họ tự bản chất của nó sẽ chỉ rất hời hợt nông cạn. Bao lâu người ta yêu thương con cái mình chủ yếu chỉ vì họ cảm thấy mình được kỳ vọng phải biểu hiện những cung cách yêu thương theo lẽ thường tình - thì bấy lâu họ sẽ không đủ nhạy cảm để nhận ra những nhu cầu tế nhị hơn nơi con cái, và họ cũng không thể diễn tả tình yêu bằng những cung cách tế nhị hơn (và thường thì đây mới là những cung cách quan trọng nhất). Những hình thức cao nhất của tình yêu nằm ở chỗ những sự chọn lựa hoàn toàn tự do chứ không ở nơi những hành vi thuần túy có tính ước lệ.
Sự dấn thân để lãnh trách nhiệm - dù hời hợt hay triệt để - cũng là nền tảng chính yếu của mọi quan hệ yêu thương đích thực. Dấn thân sâu vào trách nhiệm không phải là yếu tố đảm bảo mối quan hệ sẽ chắc chắn thành công tốt đẹp, song ít ra nó cũng là yếu tố hậu thuẫn nhiều nhất cho hoài bão ấy. Những sự dấn thân tương đối giới hạn vào ban đầu có thể phát triển sâu thêm theo thời gian; nếu không thì cuộc quan hệ sẽ tan rã hoặc sẽ rất lỏng lẻo và có thể tan rã bất cứ lúc nào. Thường chúng ta không mấy ý thức về tầm mức liều lĩnh bao hàm trong một cuộc dấn thân sâu sắc. Chúng ta đã thấy rằng một trong những chức năng của hiện tượng phải lòng - một hiện tượng thuần túy có tính bản năng - là làm cho hai người ảo tưởng rằng họ có mọi khả năng để vượt qua mọi chướng ngại có thể cản trở con đường hôn nhân của họ. Phần tôi, tôi vẫn điềm nhiên như thường cho đến khi tôi và vợ tôi bước tới trước bàn thờ để cử hành hôn lễ - khoảnh khắc ấy toàn thân tôi run lên. Tôi đã hoảng sợ đến nỗi hầu như về sau tôi không thể nhớ gì về buổi lễ cũng như về bữa tiệc cưới hôm ấy. Bao giờ cũng vậy, chính ý thức dấn thân trách nhiệm của chúng ta sau khi có thai là yếu tố chuyển hóa chúng ta từ tình trạng làm cha mẹ trong sinh lý sang tình trạng làm cha mẹ trong tâm lý. Dấn thân lãnh nhận trách nhiệm là cái luôn nội tại trong mọi mối quan hệ yêu thương đích thực. Bất cứ ai thực sự quan tâm đến sự trưởng thành tinh thần của một người khác cũng đương nhiên hiểu rõ rằng mình chỉ có thể hỗ trợ thực sự cho tiến trình trưởng thành của người ấy qua một mối quan hệ ổn định và chung thủy. Trẻ em không thể lớn lên được về mặt tâm lý nếu chúng sống trong một bầu khí đầy bất trắc, nếu chúng thường xuyên bị cha mẹ chúng hăm dọa bỏ rơi. Những vấn đề khúc mắc thường xảy ra trong đời sống hôn nhân - như lệ thuộc và độc lập, áp chế và chịu đựng, tự do và trung thành, v.v... - sẽ không thể được dàn xếp tốt nếu như người ta không tin chắc rằng việc đấu tranh trong những vấn đề ấy tự nó sẽ không bao giờ phá hủy chính mối quan hệ.
Những khó khăn xung quanh việc dấn thân trách nhiệm được ghi nhận là một phần cốt lõi trong đa số các trường hợp rối loạn tâm thần. Và điều quan trọng hàng đầu trong tiến trình trị liệu tâm lý chính là xây dựng ý thức dấn thân trách nhiệm cho bệnh nhân. Những người rối loạn tính cách thường chỉ có những mức dấn thân trách nhiệm rất hời hợt, và khi sự rối loạn tăng đến mức nghiêm trọng thì họ hầu như hoàn toàn mất khả năng dấn thân trách nhiệm. Đó không phải vì họ nhát sợ không dám dấn thân cho bằng vì họ không hiểu sự dấn thân trách nhiệm nghĩa là gì và bao hàm gì. Vì cha mẹ họ không tích cực dấn thân trách nhiệm đối với họ - nên họ đã lớn lên mà không có cảm nghiệm đầy đủ về sự dấn thân. Dấn thân là cái gì đó rất trừu tượng vượt ngoài tầm ý niệm của họ. Những người rối loạn cảm xúc (neurotic) thì thường vẫn hiểu biết về bản chất của sự dấn thân trách nhiệm nhưng họ không dấn thân vì sợ hãi. Thường đây là những người khi còn bé được cha mẹ quan tâm lo lắng và đồng thời được kỳ vọng là họ cũng có những trách nhiệm đối với cha mẹ.
Nhưng rồi sau đó họ không còn nhận được tình yêu của cha mẹ nữa do cha mẹ chết đi hay do bị cha mẹ khước từ hoặc bỏ rơi; điều này đẩy họ vào chỗ hụt hẫng và đớn đau cùng cực. Vì thế họ tự nhiên cảm thấy rất hãi sợ không dám thực hiện những cuộc dấn thân trách nhiệm mới. Những vết thương lòng này chỉ có thể được chữa trị nếu về sau đương sự có được dịp để kinh nghiệm một cách căn bản và tích cực trong một cuộc dấn thân trách nhiệm nào đó khác. Đây chính là một trong những lý do vì sao việc dấn thân nhận lãnh trách nhiệm là điều không thể thiếu trong một mối quan hệ trị liệu giữa y sĩ tâm thần và bệnh nhân của mình. Có những lúc tôi phải rùng mình khi nhận một bệnh nhân mới để bắt đầu một tiến trình trị liệu lâu dài.
Vì một tiến trình trị liệu tâm thần sẽ không thể đi đến kết quả nếu nhà trị liệu không có ý thức trách nhiệm cao độ đối với bệnh nhân tựa như những bậc cha mẹ đích thực yêu thương con cái mình. Ý thức ràng buộc trách nhiệm và mối quan tâm bền bỉ của nhà trị liệu sẽ thường xuyên được đo lường và kiểm chứng bằng vô số trường hợp diễn ra trong quá trình những năm tháng trị liệu.
Rachel, một phụ nữ hai mươi bảy tuổi rất khép kín và lạnh lùng đã đến nhờ tôi giúp trị liệu vào lúc nàng vừa chấm dứt một cuộc hôn nhân ngắn ngủi. Mark, chồng nàng, đã cắt đứt quan hệ hôn nhân với nàng vì không chịu nổi sự lạnh lùng băng giá của vợ mình. Rachel nhìn nhận: “Tôi biết mình lạnh lùng và tôi cũng nghĩ mình cần phải tỏ ra sôi nổi ấm áp với Mark hơn - nhưng điều đó đã chẳng bao giờ xảy ra. Tôi không thấy Mark có lỗi gì trong cuộc chia tay này. Chỉ tại tôi không bao giờ nồng nhiệt trong việc chăn gối với một ai cả. Thú thực, dường như tôi không thích thú lắm với chuyện đầu gối tay ấp. Một phần nào đó, có lẽ tôi cũng muốn - vì tôi mong có ngày mình sẽ có được một cuộc hôn nhân tốt đẹp bình thường. Tôi muốn là một người bình thường, một người cảm nhận được cái gì đó thích thú trong sinh hoạt tình dục. Nhưng có một phần khác trong con người tôi lại muốn duy trì cung cách cố hữu của mình. Mark vẫn thường khích lệ tôi: “Thoải mái đi em, cứ tự nhiên đi em”. Thế nhưng, xem ra tôi không muốn thoải mái và tự nhiên, mặc dù tôi vẫn có thể làm được điều đó.
Cuộc trị liệu của Rachel diễn tiến đến tháng thứ ba thì tôi bắt đầu nhận ra rằng nàng luôn luôn nói “Thank you” với tôi ít nhất hai lần trước mỗi khi bắt đầu một buổi gặp trị liệu - lần đầu khi tôi đón nàng ở phòng đợi và lần nữa khi nàng bước qua cửa để vào văn phòng tôi. Tôi nêu ghi nhận đó với Rachel, nàng trả lời: “Tôi muốn tỏ ra lịch sự; chẳng lẽ đó là vấn đề sao?”
“Lời cám ơn tự nó không phải là vấn đề”, tôi giải thích, “nhưng trong trường hợp này thì có lẽ cô không cần phải quá quan tâm đến việc nói cám ơn như vậy. Dường như cô tự cho mình là một người khách ghé thăm tôi và cô vẫn băn khoăn không biết có được tôi vui vẻ tiếp đón?
“Nhưng quả thật tôi là khách ở đây mà. Đây là nhà của ông.”
“Đúng”, tôi cười, “nhưng cô vẫn trả cho tôi đủ bốn mươi đô la mỗi lần cô gặp tôi một tiếng đồng hồ ở đây. Cô đã mua khoảng thời gian này và khoảng không gian này. Và vì cô đã mua nó nên cô có quyền đối với nó. Cô thực sự không phải là khách. Văn phòng này, phòng đợi ngoài kia, và thời gian tôi làm việc với cô... tất cả đều là quyền của cô. Tất cả là của cô. Cô đã trả tiền cho tôi để có cái quyền đó.
Vậy tại sao cô phải cám ơn tôi vì những gì vốn là của cô?”
“Tôi không thể tin rằng ông thực sự suy nghĩ kiểu đó”, Rachel trố mắt ngạc nhiên.
Tôi đáp lời nàng: “Vậy thì chắc cô tin rằng tôi có thể tống cổ cô ra khỏi đây bất cứ lúc nào nếu tôi muốn? Chắc hẳn trong thâm tâm cô vẫn nghĩ rằng rất có thể một buổi sáng nào đó, cô bước vào đây và sẽ được tôi cho biết rằng tôi quyết định chấm dứt làm việc với cô vì tôi đã quá chán?”
“Đúng là tôi vẫn lo như thế”, Rachel nhìn nhận, “tôi chưa bao giờ nghĩ mình có bất cứ quyền gì trong tương quan với người khác. Ông muốn nói rằng ông không thể tống khứ tôi ra khỏi đây à?”
“Chắc là có thể chứ. Nhưng tôi sẽ không làm thế. Tôi không muốn làm thế. Làm thế là không tốt. Này, Rachel, khi tôi nhận một ca trị liệu dài hạn như trường hợp của cô, tôi tự ràng buộc trách nhiệm của mình vào ca ấy, vào người ấy. Tôi đã nhận trách nhiệm với cô.
Tôi sẽ làm việc với cô bao lâu còn cần phải làm - dù là một năm, năm năm, mười năm, hay lâu mấy đi nữa. Tôi không biết cô sẽ kiên trì làm việc với tôi hay sẽ bỏ cuộc trước khi xong việc. Tôi chỉ chắc một điều rằng chính cô sẽ là người kết thúc chứ không phải là tôi. Tôi đã nhận trách nhiệm với cô và tôi sẽ vẫn phục vụ cô bao lâu cô còn cần tôi giúp.”
Tôi đã không gặp khó khăn mấy để hiểu vấn đề của Rachel. Hồi nàng mới bắt đầu việc trị liệu với tôi, Mark - chồng cũ của nàng - đã nói với tôi: “Có lẽ mẹ của Rachel có liên quan nhiều đến vấn đề của cô ấy. Bà là một phụ nữ rất đặc biệt. Bà có khả năng để có thể làm việc xuất sắc trong tư cách là chủ tịch công ty General Motors; nhưng tôi không nghĩ bà là một người mẹ tuyệt vời.” Nhận xét ấy của Mark quả đúng. Rachel đã được nuôi - đúng hơn, đã được khống chế - để lớn lên với nỗi ám ảnh rằng mình có thể bị cho ra rìa bất cứ lúc nào nếu tỏ ra thoáng có dấu hiệu bất kham. Thay vì tạo cho Rachel một cảm giác an tâm về tư thế của một đứa con trong gia đình, do thiếu trách nhiệm, mẹ của nàng đã hoàn toàn làm ngược lại: bà tạo cho con gái bà một cảm thức về chỗ đứng của một người làm thuê - chỗ đứng của nàng dưới mái nhà không khác gì chỗ đứng ấy chỉ được bảo đảm bao lâu nàng còn ngoan ngoãn làm những gì mình được yêu cầu làm và ứng xử một cách “biết điều”. Nàng đã không an tâm về vị trí của mình trong gia đình, nàng không thể an tâm được về vị trí của nàng trong phòng trị liệu của tôi - âu đó cũng là lẽ tự nhiên thôi! Những thương tích có nguồn gốc ở sự tắc trách của cha mẹ như thế không thể nào được chữa lành chỉ bằng đôi ba câu nói động viên qua loa. Những thương tích ấy phải được điều trị cặn kẽ lâu dài trong một tiến trình trị liệu từng bước, từng bước. Cuộc điều trị của Rachel đã mất cả năm trời mới đạt được mức cặn kẽ như thế. Trong quá trình đó, chúng tôi chú ý đến sự kiện rằng nàng không bao giờ khóc khi có sự hiện diện của tôi - đó là một dấu hiệu cho thấy nàng không thể “tự nhiên, thoải mái”. Một bữa nọ, Rachel than thở với tôi về nỗi cô đơn khủng khiếp do phải thường xuyên sống trong tình trạng cảnh giác đầy căng thẳng. Giọng nói của nàng lúc ấy là giọng nói của một người xúc động sắp sửa bật khóc. Tôi quyết định làm một điều mà mình vốn không thường làm: kích động cho nàng khóc oà ra. Tôi bước lại chỗ ghế Rachel đang nằm, khẽ xoa xoa đầu nàng và nói trong làn hơi vỗ về, tha thiết: “Tội nghiệp cho Rachel quá. Ôi, sao mà đến nỗi...” Nhưng cử chỉ ấy của tôi đã không thành công. Rachel đột nhiên nghiêm nét mặt, ngồi bật dậy, giọng nàng đanh và rắn: “Ồ, thưa ông, tôi không thể khóc được đâu”.
Lúc ấy cũng vừa hết giờ cho buổi gặp. Buổi gặp kế tiếp sau đó, Rachel bước vào văn phòng và chỉ ngồi thẳng người trên chiếc ghế của mình thay vì nằm ngả lưng như mọi lần. Nàng lên tiếng trước: “Ông muốn nói gì, xin cứ nói đi, thưa bác sĩ”.
- “Cô nói thế nghĩa là gì?”, tôi hỏi.
- “Ông đã nắm hết những vấn đề trục trặc của tôi. Và ông cũng biết rằng đó là những vấn đề hết thuốc chữa?”
Tôi ngẩn ngơ không hiểu gì cả, hỏi nàng: - “Cô muốn nói gì vậy, Rachel?”
- “Đây là buổi gặp cuối cùng ông dành cho tôi. Ông sắp tổng kết bệnh án của tôi và sắp đưa ra tất cả những lý do tại sao ông không thể tiếp tục trị liệu cho tôi nữa”.
- “Tôi hoàn toàn không hiểu gì cả. Cô đang nghĩ như thế thật ư?”
Đến lượt Rachel tỏ ra chưng hửng. Nàng nói: “À, lần trước ông đã cố làm cho tôi khóc. Ông muốn tôi khóc thật ngon lành. Ông làm mọi cách để khui cho nước mắt của tôi trào ra, nhưng tôi đã lì lợm. Vì vậy ông sắp chấm dứt công việc với tôi. Tôi không thể làm điều ông muốn tôi làm. Đó là lý do tại sao hôm nay là buổi gặp cuối cùng. Phải không?”
- “Cô thật sự tin rằng tôi sắp bỏ ngang công việc với cô hả, Rachel?”
- “Đúng vậy. Đó là điều tất nhiên xảy ra thôi”.
- “Cô lầm rồi, Rachel. Mẹ cô có thể phản ứng theo cách đó. Song tôi không phải là mẹ cô. Không phải trên đời này ai cũng giống như mẹ cô. Cô không phải là người làm công của tôi. Cô không đến đây để làm điều tôi muốn cô làm. Cô đến đây là để làm những gì cô muốn làm, lúc cô muốn làm. Tôi có thể khích lệ cô, song tôi không có quyền hạn nào trên cô. Tôi sẽ không bao giờ bỏ ngang công việc với cô. Cô sẽ tiếp tục đến đây bao lâu cô còn muốn đến”.
Một trong những vấn đề thường gặp trong các mối tương quan giữa những người lớn, nhất là khi họ lớn lên trong những gia đình có cha mẹ tắc trách, đó là: “tôi sẽ bỏ anh trước khi anh bỏ tôi”. Triệu chứng này thường ẩn trong nhiều dạng khác nhau. Tính cách lạnh lùng của Rachel là một dạng như thế. Mặc dù chính bản thân nàng không bao giờ ý thức, sự lạnh lùng của Rachel nhằm nói với chồng nàng và những người bạn trai trước đó của nàng rằng: “Tôi không thuộc về anh hoàn toàn đâu, vì tôi biết anh có thể cho tôi ra rìa sớm”.
Đối với Rachel, sự “tự nhiên thoải mái” trong quan hệ tình dục hay trong bất cứ lãnh vực nào khác là biểu hiện của một thái độ dấn thân; và người phụ nữ này không chấp nhận dấn thân bởi vì kinh nghiệm quá khứ dường như cho nàng thấy rằng chẳng bao giờ nàng nhận được sự dấn thân đáp lại.
Triệu chứng “tôi sẽ bỏ anh trước khi anh bỏ tôi” càng được thấy rõ rệt và mãnh liệt hơn nếucả hai người đều có cùng một kinh nghiệm quá khứ thuộc loại bi đát nói trên. Sau một năm trị liệu với nhịp độ hai buổi gặp mỗi tuần, Rachel cho tôi biết rằng nàng không đủ khả năng để tiếp tục chi trả mỗi tuần tám mươi đô la nữa. Kể từ khi nàng ly dị - Rachel nói - nàng thường xuyên gặp khó khăn tài chánh, và nàng nghĩ chắc phải chấm dứt cuộc trị liệu này hoặc phải giảm xuống mức một buổi mỗi tuần thôi. Thực tế thì Rachel đang cố ý bịa đặt lý do. Tôi biết rằng Rachel có một món thừa kế năm mươi ngàn đô la và trong công việc làm của nàng hiện thời, nàng lãnh một mức lương không tệ; hơn nữa, tại địa phương nàng cư trú, nhiều người biết rõ nàng xuất thân từ một gia đình rất thế lực và giàu có.
Tôi hoàn toàn có thể phản đối Rachel và vạch cho nàng thấy rằng nàng có nhiều khả năng tài chánh hơn so với rất nhiều bệnh nhân khác để tiến hành trị liệu - và như vậy tôi cũng hoàn toàn có thể tố giác ẩn ý của nàng muốn viện cớ về tiền bạc để thoái thác sự gần gũi thêm với tôi. Đàng khác, tôi cũng biết rằng đối với Rachel, món thừa kế ấy không duy chỉ có giá trị tiền bạc; nó là của nàng, nó thuộc về nàng và nó sẽ không bao giờ bỏ nàng, nó là tường lũy an toàn của nàng trong một thế giới không biết đến dấn thân. Nghĩa là tôi có quyền yêu cầu Rachel trích bớt từ số tiền thừa kế để chi trả cho việc trị liệu, song tôi đoán rằng có lẽ người phụ nữ này chưa đủ sẵn sàng để chấp nhận như vậy - và do đó nếu tôi quyết giữ lập trường của mình, nàng có thể bỏ ngang. Trước đó Rachel cho biết với mức thu nhập của nàng, nàng có thể chi trả năm mươi đô la mỗi tuần cho việc trị liệu, và nàng đề nghị đó là số tiền thù lao cho một buổi gặp. Tôi nói với nàng rằng tôi sẽ giảm mức thù lao xuống còn hai mươi lăm đô la mỗi buổi, nghĩa là nàng có thể tiếp tục đến gặp tôi hai lần mỗi tuần.
Rachel nhìn tôi với ánh mắt vừa sợ vừa nghi ngờ lẫn với niềm vui.
“Có thật vậy không, thưa bác sĩ?” - nàng hỏi. Tôi gật đầu. Một hồi lâu im lặng đăm chiêu, cuối cùng Rachel xúc động, nói như gần khóc: “Vì tôi là người của một gia đình giàu có nổi tiếng, xưa nay mỗi lần mua sắm thứ gì tôi đều bị người ta đòi giá cao hơn mức thường. Bây giờ ông lại đề nghị dành cho tôi một sự giảm giá đặc biệt. Chưa từng bao giờ có ai dành cho tôi sự ưu đãi như vậy trước đây”.
Thực ra, trong năm sau đó, Rachel cũng đã có vài lần ngừng việc trị liệu mà mục đích là để tự trắc nghiệm xem có nên dấn bước sâu hơn vào mối quan hệ gần gũi với tôi hay không. Mỗi lần như vậy, tôi đều sử dụng cả thư từ lẫn những cú điện thoại để liên lạc với nàng - và sau một hay hai tuần, tôi thuyết phục được nàng trở lại trị liệu.
Cuối cùng, vào khoảng cuối năm thứ hai, chúng tôi đã có thể thẳng thắn cởi mở hơn về những vấn đề cần mổ xẻ. Tôi khám phá ra rằng Rachel thỉnh thoảng có làm thơ và tôi yêu cầu nàng cho tôi xem những khúc thơ ấy. Đầu tiên nàng từ chối. Về sau thì nàng nhận lời, song hết tuần này đến tuần khác nàng luôn luôn “quên” mang các tập thơ ấy đến cho tôi. Tôi vạch ra rằng việc nàng giữ kín những tập thơ đó với tôi cũng mang ý nghĩa không khác với việc nàng lạnh lùng trong sinh hoạt chăn gối với Mark, người chồng đã ly dị của nàng. Tại sao Rachel cảm thấy rằng việc cho phép tôi xem những tập thơ ấy mang ý nghĩa của một sự dấn thân trọn vẹn? Tại sao nàng cảm thấy rằng việc nồng nhiệt hưởng ứng sinh hoạt chăn gối với chồng cũng có nghĩa là một sự cống hiến trọn vẹn bản ngã? Cho dẫu nếu tôi đánh giá thơ nàng là thơ con cóc, thì có phải vậy là tôi xem thường chính nàng không? Phải chăng tôi sẽ chấm dứt công việc với nàng chỉ vì nàng không phải là một thi sĩ? Nếu nàng cho tôi đọc các tập thơ ấy, rất có thể mối quan hệ giữa nàng và tôi nhờ đó mà sâu sắc hơn lắm chứ. Vì sao Rachel ngại? Vân vân, vân vân, và vân vân.
Cuối cùng, sau khi Rachel dần dần nhận ra rằng tôi thật sự nghiêm túc đảm nhận trách nhiệm với nàng, trong năm thứ ba của cuộc trị liệu, nàng bắt đầu tỏ ra có thể “tự nhiên, thoải mái”. Nàng dám mang các tập thơ của mình đến cho tôi xem. Nàng có thể nói, cười, đùa nghịch sôi nổi chứ không quá dè dặt như trước. Quan hệ vốn khách sáo và cứng nhắc giữa chúng tôi bây giờ trở nên thân mật, thoải mái và vui vẻ hơn. Rachel nói: “Trước đây tôi chưa bao giờ biết thế nào là thoải mái tự nhiên trước mặt một người khác. Đây là lần đầu tiên trong đời mình tôi ra khỏi nỗi căng thẳng bất an”. Từ sự an tâm nàng có được trong văn phòng tôi và trong những buổi gặp tôi, Rachel đã dần dần có thể tìm được sự an tâm trong các mối quan hệ khác. Khi nàng kết thúc quá trình bốn năm trị liệu với tôi, nàng đã trở thành một con người rất nhiệt tình cởi mở.
Tôi đã may mắn có thể cống hiến được cho Rachel sự dấn thân trách nhiệm đủ để giúp nàng vượt qua những lệch lạc tai hại gây ra do cả một thuở thiếu thời nàng không cảm nhận được sự dấn thân trách nhiệm từ cha mẹ. Nhưng không phải tôi luôn luôn có được sự may mắn đó. Chuyện của người kỹ thuật viên máy tính (mà tôi kể ở phần trước khi phân tích vấn đề chuyển vị) là một thí dụ. Anh ta cần sự dấn thân trách nhiệm của tôi ở mức triệt để đến nỗi tôi không thể - hay không sẵn sàng - đáp ứng được. Nếu mức độ dấn thân trách nhiệm của nhà trị liệu không đủ để vượt qua được những sự cố bất ưng xảy đến trong tiến trình trị liệu thì sự chữa trị căn bản sẽ không xảy ra. Ngược lại, nếu nhà trị liệu có đủ mức dấn thân trách nhiệm, thì thường sớm hay muộn bệnh nhân cũng sẽ đáp trả bằng một thái độ dấn thân đúng mức của chính họ đối với nhà trị liệu và đối với chính cuộc trị liệu. Lúc mà bệnh nhân bắt đầu biểu hiện sự dấn thân này chính là lúc mà cuộc trị liệu đạt đến bước ngoặt chuyển biến.
Trong trường hợp của Rachel, tôi nghĩ bước ngoặt ấy đã xảy ra khi rốt cục nàng chấp nhận cho tôi xem các tập thơ của nàng. Điều đáng ngạc nhiên là có một số bệnh nhân chuyên cần duy trì hai hay ba giờ trị liệu mỗi tuần hết năm này đến năm khác mà vẫn không bao giờ đạt đến bước ngoặt này. Một số khác có thể đạt đến nó chỉ sau vài tháng đầu tiên. Có điều chắc chắn là người ta không thể được chữa trị bao lâu họ chưa đạt đến bước ngoặt này. Đối với nhà trị liệu, bước ngoặt này là khoảnh khắc tuyệt vời đầy sức khích lệ; vì ông ta biết rằng với thái độ dám dấn thân trách nhiệm của bệnh nhân, cuộc trị liệu đã gần đạt đến thành công mỹ mãn.
Thái độ dám dấn thân trách nhiệm đối với cuộc trị liệu đương nhiên bao hàm sự chấp nhận đương đầu với chính bản ngã mình và sẵn sàng thay đổi. Trong phần thứ nhất của cuốn sách này, khi bàn về tinh thần dấn thân cho sự thật, tôi đã mô tả chi tiết những khó khăn mà ta thường gặp trong việc thay đổi tấm bản đồ “quá đát”, tức thay đổi thế giới quan của mình. Tuy nhiên, thay đổi là điều tất yếu đối với bất cứ ai muốn sống cuộc sống yêu thương, nghĩa là một cuộc sống không ngừng mở rộng con người mình ra để đi vào những chiều kích và những địa hạt liên đới mới. Dù có sự hướng dẫn của một chuyên viên tâm lý trị liệu hay không, trên hành trình trưởng thành tinh thần của một người bao giờ cũng có những mốc điểm đòi hỏi đương sự phải đổi mới cách hành động sao cho phù hợp với thế giới quan mới của mình. Việc đổi mới như vậy - nghĩa là ứng xử một cách khác hẳn so với lề lối cố hữu của mình - nhiều khi được thấy là một liều lĩnh phi thường. Chàng trai trẻ nọ lần đầu tiên chủ động hẹn hò với một cô gái; người đàn ông kia - chưa bao giờ tin tưởng bất cứ ai - nay bỗng chấp nhận buông lỏng người trên chiếc ghế của nhà phân tâm với thái độ hoàn toàn phó thác, người vợ nọ sau bao năm tháng thụ động lệ thuộc vào ông chồng độc đoán nay bỗng xông ra tìm một việc làm để khẳng định mình sống cuộc sống mình - bất chấp ông chồng có đồng ý không; người đàn ông 55 tuổi kia yêu cầu mẹ mình không nên tiếp tục xem mình là một “thằng cu” nữa; hay một ông khác - vốn cực kỳ cứng rắn và lạnh lùng - nay bỗng cho phép mình tuôn lệ trước mặt người khác; hoặc Rachel lần đầu tiên có thể thoải mái khóc và thoải mái cười trong văn phòng tôi... tất cả những chuyển biến ấy đều liên quan tới một sự liều lĩnh rất riêng tư và do đó hãi hùng hơn nhiều so với sự liều lĩnh của một người chiến sĩ xông vào lằn tên mũi đạn. Người lính phải bám chốt và giữ lấy trận địa của mình vì anh không thể bỏ chạy khi mà cả trước mặt lẫn sau lưng anh đều có hỏa lực khống chế. Nhưng con người trên mặt trận trưởng thành tinh thần kia thì luôn luôn có thể triệt thoái để rút về đóng khung trong mô hình quen thuộc, dễ dãi cũ của mình.
Như chúng ta đã biết, một cuộc trị liệu chỉ thành công khi nhà trị liệu xúc tiến mối quan hệ với bệnh nhân với cùng một thái độ can đảm và ý thức dấn thân mà bệnh nhân của mình cần phải có. Nhà trị liệu cũng phải dám thay đổi. Trong số tất cả những nguyên tắc trị liệu mà tôi đã học, ít có nguyên tắc nào mà tôi chưa từng phá bỏ lúc này hay lúc khác, không phải vì lười biếng hoặc vì tùy tiện mà bởi vì tôi cảm thấy dường như cuộc trị liệu cụ thể ấy đòi phải như thế. Tôi bước ra khỏi sự an toàn của những công thức tiền chế, tôi hành xử cách khác và chấp nhận phiêu lưu vào những cái bất ngờ. Điểm lại quá trình hành nghề của mình, tôi nhận thấy không một ca trị liệu thành công nào mà không bao hàm những lúc mình phải dám liều.
Thái độ sẵn sàng chịu đựng của nhà trị liệu trong những khoảnh khắc ấy có lẽ là phần trọng yếu nhất của cuộc trị liệu. Và khi bệnh nhân cảm nhận được điều đó nơi y sĩ của mình, (ít có trường hợp nào mà bệnh nhân không cảm nhận được), nó sẽ phát huy tác dụng chữa trị. Cũng chính nhờ thái độ sẵn lòng mở rộng con người mình ra và cùng cảm nghiệm những khó khăn với bệnh nhân mình mà nhà trị liệu có thể trưởng thành hơn và thay đổi. Khi điểm lại các ca trị liệu thành công của mình, tôi không thể không ghi nhận rằng mỗi ca ấy đều góp phần lớn đem lại sự thay đổi nhận thức và thái độ nơi bản thân tôi - và đó là những thay đổi hết sức cơ bản. Điều đó được thấy như một quy luật. Làm sao ta có thể thực sự hiểu một người nếu người ấy không chiếm một chỗ trong ta? Và làm sao người khác có thể chiếm một chỗ trong ta nếu ta không mở rộng con người mình ra - nghĩa là nếu ta không thay đổi chính bản ngã mình?
Những gì vừa nói trên về cuộc trị liệu tâm lý cũng hoàn toàn đúng cho vai trò làm cha làm mẹ. Để có thể lắng nghe con cái, cha mẹ cũng phải biết quan tâm và biết mở rộng chính mình ra. Làm sao cha mẹ có thể đáp ứng những yêu cầu chính đáng của con cái nếu họ không thay đổi chính bản thân họ? Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng chấp nhận đổi thay, chúng ta mới có thể trở thành những người cha người mẹ đúng như con cái mình cần. Hơn nữa, vì con cái chúng ta không ngừng lớn lên và nhu cầu của chúng không ngừng thay đổi, nên chúng ta không có con đường nào khác hơn là cùng thay đổi và lớn lên với chúng. Trong thực tế, có rất nhiều cha mẹ chỉ làm cha làm mẹ hữu hiệu cho tới khi con cái họ bước vào tuổi thành niên; rồi họ không còn làm cha mẹ một cách hữu hiệu nữa bởi vì họ không thể thay đổi để thích nghi thái độ đối với con cái họ giờ đây đã lớn hơn và đã đổi khác nhiều rồi. Và, cũng như trong bất cứ cảnh vực nào khác của tình yêu, sẽ thật sai lầm nếu xem những thái độ sẵn sàng chấp nhận đổi thay của cha mẹ như một cái gì mang ý nghĩa “bỏ mình” hay “tuẫn đạo”. Trái lại, trong quá trình đổi thay ấy, cha mẹ còn gặt hái được nhiều hơn cả con cái họ. Còn đối với những cha mẹ không chấp nhận đổi thay, không dám lớn lên và không sẵn sàng lắng nghe con cái họ - thì đó là họ đang chọn con đường thoái hóa, dù họ có ý thức điều đó hay không. Con cái họ và cả cuộc sống sẽ bỏ họ lại sau lưng. Biết học hỏi từ con cái mình, đó là cách tốt nhất mà đa số các cha mẹ có thể làm để bảo đảm cho mình một tuổi già đầy ý nghĩa. Đáng buồn là phần lớn trong chúng ta lại để vụt mất cơ hội này.
Đòi hỏi cuối cùng và có lẽ cũng là đòi hỏi cam go nhất của tình yêu - đó là dám thi thố sức mạnh của mình trong tinh thần khiêm tốn.
Ví dụ thông thường nhất của đòi hỏi này là thái độ đối kháng người ta phát xuất từ tình yêu đối với họ. Bất cứ khi nào chúng ta phản kháng một ai, chung quy chúng ta muốn nói với người đó rằng “Anh sai rồi, tôi mới đúng”. Khi một người cha hay mẹ phản kháng con mình và nói “Mầy đang giấu giếm”, thì điều đó tựu trung có nghĩa: “Sự giấu giếm của mày là sai. Tao có quyền khiển trách mày, vì tao không giấu giếm và do đó tao đúng”. Khi một người chồng phản đối tính cách lạnh lùng của vợ mình, anh ta đang muốn nói rằng “Em quá lạnh lùng, em có lỗi khi không nồng nhiệt với tôi trong chuyện gối chăn. Tình dục của tôi ổn định bình thường, còn của em thì có vấn đề”. Khi một người vợ phản đối chồng mình vì cho rằng anh ta không dành thời giờ đủ cho vợ con, cô ta muốn nói: “Anh quá mê mải công việc, và như vậy là không đúng. Cho dù tôi không làm công việc của anh, tôi vẫn có thể phán đoán các vấn đề một cách sáng tỏ hơn anh.
Anh phải điều chỉnh lại các mức độ quan tâm của anh cho đúng”.
Khả năng phản kháng theo kiểu “Tôi đúng, anh sai và anh phải thay đổi” là một khả năng mà nhiều người trong chúng ta xem ra có thừa.
Trong quan hệ với con cái mình, với vợ (hay chồng) mình, với bất cứ ai khác, chúng ta thường xuyên vô tình chiếm lấy vai trò cầm trịch để phân định đúng sai - và bao giờ cũng là “tôi đúng, anh sai, anh là người phải thay đổi”. Phần lớn những kiểu phản kháng và phê phán ào ào nóng vội như thế chỉ làm sự việc thêm lộn xộn rắc rối chứ không đem lại chút sáng sủa nào cho tình hình.
Đối với những con người biết yêu thương đích thực, hành vi phản kháng và phê phán là điều mà họ rất dè dặt. Họ biết rằng phản ứng như thế rất dễ chủ quan và trịch thượng. Phản kháng một người mà mình yêu thương có nghĩa là nhận lấy vai trò dạy bảo người ấy - ít nhất là dạy bảo trong phạm vi vấn đề được nêu ra cụ thể ở đây và lúc này. Thế nhưng tình yêu đích thực cũng đòi người ta phải biết nhìn nhận và tôn trọng cá thể tính độc đáo của kẻ khác. Con người biết yêu thương đích thực - tức biết trân trọng tính độc đáo và khác biệt nơi người mình yêu thương - sẽ không tự cho phép mình quá dễ dãi để khẳng định rằng “tôi đúng, anh sai, tôi biết rõ hơn anh về những gì tốt cho anh”. Đàng khác, trong cuộc sống thực tế vẫn có những lúc mà quả thực người này biết rõ hơn người kia về những gì tốt cho người kia - và do đó người này đang ở trong tư thế có thể chỉ bảo cho người kia vấn đề đang liên hệ lúc đó. Trong những trường hợp như vậy, kẻ sáng suốt hơn đương nhiên có bổn phận phải phản kháng sự sai lầm nơi người kia. Ta hiểu vì sao những người yêu thương đích thực thường ở trong thế lưỡng nan, một đàng vừa tôn trọng lối sống riêng của người mà mình thương yêu - đàng khác vừa phải có trách nhiệm chỉ dẫn khi mà người kia xem ra đang cần sự chỉ dẫn của mình.
Thế lưỡng nan ấy chỉ có thể được giải tỏa bằng sự suy xét hết sức cặn kẽ và khách quan. Ta phải tra vấn chính sự “khôn ngoan, sáng suốt” của mình và tra vấn những động cơ thúc đẩy mình hành xử vai trò dẫn dắt người kia. “Có thực mình đang thấy rõ vấn đề hay mình cũng chỉ đang bơi trong những giả đoán mập mờ thôi? Có thực mình hiểu anh ta (hay cô ta)? Rất có thể anh ta (hay cô ta) đúng và mình sai lắm chứ? Rất có thể góc nhìn của mình không đủ rộng? Rất có thể mình chỉ đang nhắm đến lợi ích của riêng mình khi muốn uốn nắn anh ấy (hay cô ấy)?” Đó là những câu hỏi mà một con người biết yêu thương đích thực sẽ không ngừng tự vấn. Thái độ tự vấn cặn kẽ này - càng khách quan càng tốt - chính là cốt lõi của tinh thần khiêm tốn và hiền dịu. Một vị tu sĩ và đồng thời là một nhà linh hướng người Anh ở thế kỷ XIV đã nói: “Căn tính của sự hiền hòa không gì khác hơn là hiểu biết và cảm nhận chính mình đúng như sự thực của mình. Bất cứ ai thực sự biết và cảm nhận chính mình đúng như sự thực của mình thì đương nhiên sẽ hiền hòa”.
Như vậy, có hai cách để phản kháng và phê phán người khác: một là ào ào cả quyết rằng mình đúng, hai là tin tưởng rằng mình đúng sau khi đã cân nhắc và tra vấn cặn kẽ chính mình. Cách thứ nhất có tính trịch thượng và áp chế; và đây là cách được thấy nhan nhản trong cuộc sống thường ngày, nó thường không thành công, nó gây ra sự chống đối hơn là sự trưởng thành - và nó còn là nguyên nhân của bao hậu quả tệ hại không ngờ trước khác nữa. Cách thứ hai là con đường khiêm tốn. Ít người chọn đi con đường này, bởi nó đòi người ta phải biết thực sự mở rộng con người mình ra. Đây là cách có nhiều cơ may thành công hơn, và trong kinh nghiệm của bản thân tôi, tôi chưa bao giờ thấy nó gây ra một điều tệ hại nào.
Cũng có không ít người, vì lý do này hay lý do khác, biết chọn thái độ kìm chế khuynh hướng phản kháng và phê phán một cách bộc trực và trịch thượng, song họ không đi xa hơn. Họ cảm thấy “không đụng chạm” là đủ rồi, họ không dám chủ động tác động. Tôi có biết một người như vậy, đó là một mục sư và là cha của một nữ bệnh nhân ở tuổi trung niên - bệnh nhân này mắc chứng suy nhược thần kinh kéo dài trong nhiều năm. Mẹ của chị - tức vợ của ông mục sư - là một người đàn bà cáu kỉnh nắm quyền điều khiển mọi việc trong nhà. Bà hành sử như một bà chủ khó tính và trí trá, thậm chí bà thường xuyên đánh đập chồng trước mặt con gái mình. Phần ông mục sư, ông không bao giờ chống cự lại những cơn bão tố của vợ, ông cũng khuyên con gái ông nhẫn nhục chịu đựng theo tinh thần “chìa luôn má bên kia” cho mẹ tát, một sự chịu đựng vô giới hạn và không thoáng chút oán trách nào. Khi người con gái trong gia đình ấy bắt đầu cuộc trị liệu tâm lý với tôi, chị tỏ ra rất ngưỡng mộ cha mình vì sự “hiền lành” và “yêu thương” của ông. Song chỉ một thời gian ngắn, chị bắt đầu nhận ra rằng tính cách hiền lành ấy chỉ là một sự nhu nhược; và rằng với thái độ thụ động của cha chị, ông đã tắc trách trong vai trò làm cha mẹ không kém chi thái độ độc đoán ác nghiệt của mẹ chị. Cuối cùng chị nhận thấy rõ cha mình đã không làm gì để bảo vệ mình trong tình trạng bị mẹ áp bức; quả thực ông đã không làm gì để chống lại sự dữ nơi vợ ông, ông đã bỏ chị chơ vơ và chị không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc phải kết hợp tính cách quỷ quyệt của mẹ với thái độ khiêm tốn giả tạo của cha để làm mẫu thức ứng xử cho mình. Không dám phản kháng khi sự phản kháng là cần thiết cho sự trưởng thành tinh thần của người ta cũng là dấu hiệu thiếu tình yêu không khác chi so với thái độ hàm hồ chỉ trích hoặc cố tình bỏ mặc người ta. Những cha mẹ yêu thương con mình sẽ biết phản kháng và phê phán chúng lúc này lúc khác - có thể một cách rất dè dặt song cũng không thiếu quyết liệt - đồng thời họ cũng cho phép con cái mình phản kháng và phê phán mình lúc này lúc khác. Cũng vậy, một cuộc hôn nhân có sức làm cho hai vợ chồng lớn lên về mặt tinh thần là một cuộc hôn nhân trong đó người vợ và người chồng không ngại tỏ thái độ phản kháng người bạn đời mình trong những trường hợp cần thiết. Một cuộc hôn nhân chỉ có thể gọi là thành công thật sự khi người vợ và người chồng là những nhà phê bình tốt nhất của nhau. Trong các mối quan hệ bạn bè cũng vậy. Có một quan niệm xưa nay cho rằng bạn bè tốt là bạn bè không bao giờ xung đột nhau, luôn luôn che chắn lấp liếm cho nhau, chỉ biết vuốt ve nhau bằng những lời khen ngợi hào phóng. Những mối quan hệ như vậy rất hời hợt, không bao giờ mật thiết được, và không đáng gọi là tình bạn như người ta vẫn thường lầm tưởng. Cũng may là đang có những dấu hiệu cho thấy quan niệm về tình bạn của người ta đang bắt đầu có chiều sâu hơn. Đương đầu nhau trong tinh thần yêu thương là một yếu tố cần thiết để làm nên những mối quan hệ tốt đẹp và thành công giữa người với người. Thiếu yếu tố này, mối quan hệ nếu không gãy đổ thì cũng chỉ rất hời hợt nông cạn thôi.
Đương đầu và phản kháng là một cách để thực thi vai trò dẫn dắt và tác động. Tác động là gì nếu không phải là hành động để uốn nắn lèo lái con người và sự vật – theo cách mà mình tiên định sẵn dù với ý thức hay không ý thức. Sở dĩ ta đương đầu và phản kháng một người, đó là vì ta muốn sửa đổi chiều hướng sống của người ấy. Rõ ràng là còn có nhiều cách thế khác nữa – thường là những cách có tính áp đặt ảnh hưởng – để cố uốn sửa người khác: bằng nêu gương, bằng gợi ý, bằng những hình thức thưởng phạt, bằng đưa ra sự chất vấn, cấm đoán hay cho phép, bằng cách tạo kinh nghiệm cho người ta, bằng cách cùng dàn xếp và xử lý với người ta, vân vân...
Có thể viết cả pho sách để trình bày nghệ thuật tác động. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ cần tóm lại rằng hễ ai biết yêu thương thì cũng phải biết quan tâm đúng mức đến thứ nghệ thuật này. Vì nếu ta khao khát thúc đẩy sự trưởng thành tinh thần nơi người ta, ta không thể không cân nhắc để tìm ra phương thế kiến hiệu nhất nhằm đạt được mục tiêu ấy trong từng tình hình cụ thể. Chẳng hạn, các cha mẹ biết yêu thương phải là những cha mẹ biết tự tra xét mình và những giá trị của mình trước khi đi đến xác quyết rõ rệt rằng mình biết cái gì là tốt nhất cho con cái mình. Đồng thời, họ cũng phải lưu tâm đầy đủ đến đặc điểm cá tính và khả năng của con mình trước khi quyết định xem nên trực tiếp phản đối nó hay là nên khen ngợi nó, nên tăng cường theo dõi nó hay là nên chia sẻ với nó vài mẩu chuyện, hoặc dùng một hình thức tác động nào đó khác. Phản đối một người về một điều gì đó mà chính mình không nắm vững thì thật là vu vơ và dễ đem lại những hậu quả tai hại. Làm sao người khác có thể lắng nghe ta nếu ta không nói với họ bằng một ngôn ngữ mà họ có thể hiểu được; và làm sao người khác có thể thi hành điều ta đề nghị nếu điều ấy vượt ngoài khả năng thực tế của họ! Người yêu thương thực sự luôn luôn biết mở rộng mình ra để điều hợp mối liên lạc sao cho thích nghi với khả năng của người mà mình yêu thương.
Rõ ràng là việc hành sử vai trò tác động trên căn bản yêu thương là một việc đầy thách đố. Tại sao đầy thách đố? Vì khi người ta càng yêu thương nhiều hơn thì người ta càng khiêm tốn nhiều hơn; và khi người ta càng khiêm tốn thì người ta càng dè dặt trong việc tác động, dẫn dắt người khác. Tôi là ai mà dám điều chỉnh, uốn nắn người ta?
Tôi căn cứ vào thẩm quyền nào để quyết định cái gì là tốt nhất cho con tôi, cho vợ (hay chồng) tôi, cho đất nước tôi, cho nhân loại? Ai trao cho tôi cái quyền hạn để dám tin vào sự nhận định của riêng mình và do đó dám điều động thế giới theo ý muốn của mình? Tôi là ai mà dám chia sẻ vai trò của Thiên Chúa? Đó là cả một sự thách đố!
Vì quả thực mỗi khi chúng ta hành sử vai trò tác động là chúng ta đang cố gắng uốn nắn cục diện của cuộc sống, của con người – và như vậy có nghĩa là chúng ta đang nhập vai Thiên Chúa. Phần lớn các cha mẹ, các thầy cô giáo, các nhà lãnh đạo – tức phần lớn chúng ta là những người có hành sử vai trò tác động – thường không ý thức về điều ấy. Bất cứ khi nào chúng ta cố gắng tác động người khác mà không hoàn toàn ý thức về chính mình – như điều kiện không thể thiếu của tình yêu – thì đó là lúc chúng ta vô tình quên rằng mình đang chia sẻ vai trò của Thiên Chúa, một sự vô tình đầy tai hại!
Trái lại, những ai yêu thương đích thực và biết hành động theo sự khôn ngoan mà tình yêu đòi hỏi thì sẽ ý thức rằng mỗi khi mình hành động là mình đang dám chia sẻ vai trò của Thiên Chúa. Tuy nhiên họ cũng biết rằng họ không có sự lựa chọn nào khác (vì họ không thể chọn thái độ thúc thủ và bất lực). Tình yêu thúc bách chúng ta hành sử vai trò của Thiên Chúa với đầy đủ ý thức về tầm vóc lớn lao của hành động mà mình đang thực hiện. Nhờ ý thức ấy chúng ta đảm nhận trách nhiệm thay mặt Thiên Chúa một cách nghiêm túc chứ không cẩu thả – để chu toàn ý muốn của Thiên Chúa mà không vướng mắc sai lầm. Như vậy, chúng ta đi đến với một nghịch lý khác: chỉ nhờ tinh thần khiêm tốn của tình yêu, mà người ta có thể dám hành sử thay mặt Thiên Chúa.
Tôi đã có đề cập rằng chính tình yêu – một dạng thức của ý chí – cung cấp cho người ta năng lực để họ tự đặt mình trong khuôn khổ kỷ luật. Như vậy, ta không chỉ có thể nói rằng tự chế thường là kết quả của tình yêu hay chính là tình yêu được chuyển hóa thành hành động – mà ta còn có thể khẳng định rằng bất cứ ai yêu thực thì cũng biết tự chế, và bất cứ mối quan hệ yêu thương đích thực nào cũng đều là một mối quan hệ nằm trong khuôn khổ. Nếu tôi thực sự yêu một người, đương nhiên tôi sẽ chú ý để ứng xử sao cho có thể đóng góp nhiều nhất vào sự trưởng thành tinh thần của người ấy. Tôi đã có lần làm việc với một đôi vợ chồng trẻ đẹp, thông minh, có tính cách nghệ sĩ và hơi kỳ cục nọ. Họ đã trải qua bốn năm sống đời hôn nhân với nhau đánh dấu bằng những trận gây gỗ, cãi vã hằng ngày, những vụ ngoại tình hằng tuần và những vụ bỏ nhau hằng tháng.
Sau khi làm việc với tôi một thời gian ngắn, cả hai anh chị đều nhận ra rằng việc trị liệu có thể giúp họ biết tự đưa mình vào khuôn khổ nhiều hơn và do đó sẽ giúp làm cho mối quan hệ giữa họ bớt lộn xộn hơn. Thế nhưng họ phản đối, viện lý rằng tôi muốn tước bỏ đam mê ra khỏi cuộc sống của họ; họ cho rằng quan điểm của tôi về tình yêu và hôn nhân không có chừa một chỗ nào cho sự đam mê. Ngay lập tức họ chấm dứt trị liệu với tôi. Và tôi được biết rằng ba năm sau – sau khi họ đã gõ cửa vài chuyên viên trị liệu tâm lý khác – hai vợ chồng này vẫn hục hặc nhau đều đều mỗi ngày, mọi sự vẫn như cũ, ngay cả đời sống riêng của mỗi người trong họ cũng chẳng khá hơn.
Đã hẳn rằng mối dây kết hợp giữa đôi vợ chồng này – theo một nghĩa nào đó – cũng đầy màu sắc. Nhưng nó giống như những mảng màu đỏ xanh vàng trong các bức vẽ của trẻ con, những mảng màu được tóe lên giấy một cách tùy tiện, đôi khi thấy cũng có vẻ ngộ nghĩnh, song nói chung đó chỉ là thứ nghệ thuật của trẻ con không hơn không kém. Trong các họa phẩm của Rembrandt, với những gam màu nhạt tối nhưng được phối trí với sự kiểm soát chặt chẽ hơn, người ta lại cảm nhận được ý nghĩa độc đáo và phong phú hơn cả một trời một vực. Đam mê có nghĩa là cảm xúc sâu sắc. Việc buông cương cảm xúc không hề làm cho nó sâu sắc hơn tí nào so với một cảm xúc được kiểm soát. Trái lại, các bác sĩ tâm thần thường chứng nghiệm rất rõ sự thật hàm chứa trong những câu nói ngàn xưa như “Thùng rỗng kêu to”, hay “Sông sâu, nước tĩnh”.
Chúng ta không được phép kết luận rằng một người điều hòa và làm chủ cảm xúc của mình là một người không biết đam mê nồng nhiệt.
Đành rằng chúng ta không nên làm nô lệ cho các cảm xúc của mình, song sự tự chế không hề có nghĩa là dập tắt các cảm xúc, không cho chúng hiện hữu. Tôi thường nói với các bệnh nhân của tôi rằng cảm xúc của họ là những nô lệ của họ – và nghệ thuật tự chế cũng giống như nghệ thuật chiếm hữu nô lệ. Trước hết, cảm xúc là nguồn cung cấp năng lực cho người ta; chúng cung cấp những mã lực, hay những lực của nô lệ, giúp ta hoàn thành những công việc trong cuộc sống. Và bởi vì chúng phục vụ ta nên ta cần đối xử tử tế với chúng. Có hai lỗi lầm thông thường mà các chủ nô có thể vấp phải: đó là hoặc chỉ huy thái quá hoặc chỉ huy bất cập. Nhiều chủ nô chỉ huy bất cập, không vạch khuôn khổ cho các nô lệ của mình, không biết khống chế chúng, không trao cho chúng một chỉ thị nào, và không minh định rõ ai là chủ và ai là đầy tớ. Điều tất nhiên sẽ xảy ra là đến một lúc nào đó, các nô lệ của anh ta sẽ đình công; chúng bắt đầu xông vào chính sảnh, sục sạo tủ rượu, đập phá đồ đạc, lật đổ ghế bàn... và chẳng bao lâu ông chủ sẽ nhận ra rằng mình đã trở thành nô lệ của lũ nô lệ ấy – mọi sự hóa nên hỗn độn như trường hợp của đôi vợ chồng lộn xộn kể trên kia.
Cung cách chỉ huy đối ngược lại cũng tai hại không kém. Trong cung cách này, người chủ nô quá lo sợ rằng những tên nô lệ (tức các cảm xúc) của mình có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Vì muốn bảo đảm các nô lệ của anh sẽ không gây bất cứ rắc rối nào cho anh, anh chọn phương án trấn áp đánh đập chúng thường xuyên và thẳng tay trừng phạt mỗi khi chúng thoáng có dấu hiệu biểu lộ sức mạnh. Kết quả là chỉ sau một thời gian ngắn, đám nô lệ trở nên càng ngày càng kém sắc sảo và bén nhạy – bởi vì lối đối xử nghiệt ngã của chủ đã làm cho ý chí của chúng yếu nhược dần. Hoặc cũng có thể chúng âm thầm ươm mầm phản loạn. Và rồi một đêm kia, điều lo lắng của ông chủ bỗng biến thành sự thật: Lũ nô lệ vùng dậy đốt phá gia trang – thường là nướng cả ông chủ trong biển lửa cuồng nộ ấy. Hoa trái của bức xúc thường là như thế. Như vậy, cung cách thích đáng để làm chủ các cảm xúc của mình rõ ràng phải mang tính quân bình (dĩ nhiên không hề đơn giản hay dễ dàng) – cung cách ấy đòi người ta phải không ngừng cân nhắc và điều chỉnh. Trong cung cách quân bình này, người chủ cư xử với các nô lệ (tức các cảm xúc) của mình với lòng tôn trọng, biết nuôi chúng bằng những thức ăn bổ dưỡng, biết săn sóc chỗ ở và thuốc men cho chúng, biết lắng nghe và biết đáp ứng các tiếng réo gọi của chúng, biết chú ý đến tình trạng sức khỏe của chúng đồng thời, người chủ vẫn tổ chức chúng, đặt ra cho chúng những quy định, dàn xếp các tranh chấp giữa chúng, uốn nắn và giáo dục chúng, không bao giờ mất ý thức mình là chủ và chúng là nô lệ của mình. Đó là con đường tự chế định mình trong khuôn khổ, một con đường lành mạnh.
Trong số những cảm xúc phải được chế định như thế, đáng kể trước hết là cảm xúc yêu. Như chúng ta đã thấy trước đây, cảm xúc yêu tự nó không phải là tình yêu thực sự. Nó chỉ là một cảm xúc gắn liền với sự quyến luyến. Nó phải được tôn trọng và được bồi dưỡng – vì nó là nguồn năng lực sáng tạo rất đáng kể. Nhưng nếu để mặc nó tung hoành thì kết quả sẽ không phải là tình yêu đích thực mà chỉ là sự lộn xộn và tê liệt. Tình yêu thực bao giờ cũng bao hàm một sự mở rộng bản ngã – do đó cần rất nhiều năng lực; thế nhưng kho dự trữ năng lực của chúng ta rất giới hạn, nghĩa là rõ ràng chúng ta không thể yêu hết mọi người. Thật vậy, chúng ta có thể có cảm xúc yêu đối với cả nhân loại, và cảm xúc này có thể hữu ích vì nó cung cấp cho ta đủ năng lực để ta thể hiện tình yêu đích thực đối với một vài cá nhân cụ thể nào đó. Điều đáng nói là chúng ta hoàn toàn có khả năng để yêu một số cá nhân cụ thể bằng một tình yêu đích thực (chứ không phải chỉ là cảm xúc yêu suông). Mọi cố gắng để vượt quá giới hạn năng lực của mình đều chẳng khác nào muốn cho nhiều hơn cái mình có. Ai cũng có một “mức tới hạn” mà nếu cố vượt qua mức đó – để yêu tất cả mọi người đến với mình – thì sẽ trở thành một trò lừa phỉnh và chỉ gây tai hại cho chính những đối tượng mà mình muốn nâng đỡ. Thế thì, nếu chúng ta may mắn ở vào một vị trí mà nhiều người đến gõ cửa yêu cầu được ta quan tâm, ta phải chọn trong số họ những ai mình phải yêu thực sự. Sự lựa chọn này không bao giờ dễ. Nó có thể là một sự chọn lựa đau đớn tím lòng – đau đớn như phải đảm nhận vai trò của Thiên Chúa vậy. Song ta phải chọn lựa. Và để thực hiện sự chọn lựa này ta phải xem xét đến nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng hàng đầu là phải xét đến khả năng hưởng ứng tình yêu của ta nơi một người nào đó: người ấy có thể lớn lên được về mặt tinh thần nhờ tình yêu của ta hay không. Khả năng này rất khác biệt từ người này đến người khác. Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này sau. Tuy nhiên, có thể khẳng định ngay một điều là có nhiều người quá cố chấp và cứng cỏi đến nỗi mọi nỗ lực cao nhất của ta nhằm giúp di dưỡng tinh thần cho họ đều chẳng đem lại kết quả nào. Khi ta cố yêu thương một người mà người ấy không thể tận dụng tình yêu của ta để lớn lên – thì đó là ta đang phung phí năng lực của mình, đang gieo những hạt giống vào sỏi đá. Tình yêu đích thực là điều quí giá – và những ai có khả năng yêu thương đích thực đều hiểu rằng năng lực yêu thương của mình cần phải được huy động một cách càng hữu hiệu càng tốt. Việc huy động như vậy tất nhiên đòi người ta phải có khả năng tự chế.
Xung quanh việc yêu quá nhiều người cũng có những vấn đề cần được thảo luận. Xem ra một số người có thể cùng một lúc yêu hơn một người, có thể cùng một lúc đạt được nhiều mối quan hệ yêu thương đích thực. Sự kiện này tự nó là một vấn đề, vì một số lý do.
Một trong những lý do ấy nằm ở thần thoại của người Mỹ và người phương Tây về tình yêu lãng mạn – thần thoại ấy cho rằng người ta “có số kết đôi với nhau”, do đó hễ tôi có số với một ai rồi thì không thể nên duyên với bất cứ người nào khác. Như vậy, thần thoại này xác nhận tính độc quyền trong các mối quan hệ tình yêu, nhất là tính độc quyền trong các mối quan hệ tính dục. Trong một chừng mực nào đó, thần thoại này có lẽ hữu ích vì nó góp phần đem lại sự ổn định và sự hữu hiệu trong các mối quan hệ con người, bởi vì đại đa số người ta nhờ đó sẽ biết giới hạn khả năng của mình để mở rộng chính mình ra nhằm phát triển các mối quan hệ yêu thương đích thực với chỉ người bạn đời và con cái của mình mà thôi. Thật vậy, nếu ta có thể nói rằng ta đã xây dựng được những mối quan hệ yêu thương đích thực với bạn đời và con cái mình – thì quả là ta đã đạt được nhiều hơn những gì mà phần lớn người ta đạt được trong cả đời họ. Rất thường xảy ra điều đáng tiếc cho một số người, đó là họ không xây dựng được gia đình mình thành một gia đình yêu thương song lại không ngừng cặm cụi tìm kiếm những mối quan hệ yêu thương ở ngoài gia đình. Bổn phận thứ nhất của một kẻ biết yêu thương đích thực luôn luôn là bổn phận đối với mối quan hệ với người bạn đời và con cái mình. Tuy nhiên, có một số người có đủ khả năng để xây dựng thành công những mối quan hệ yêu thương cả đối với gia đình lẫn đối với những mối quan hệ khác bên ngoài. Đối với những người này, thần thoại về tính độc quyền nói trên không chỉ không đúng mà còn đề ra một sự giới hạn không cần thiết cản trở họ mở rộng chính mình ra ngoài phạm vi gia đình. Việc vượt qua sự giới hạn ấy là điều có thể, song người ta phải hết sức cảnh giác để tránh rơi vào cám dỗ “căng mình ra quá mỏng”. Bàn đến vấn đề cực kỳ phức tạp này, Joseph Fletcher, thần học gia và là tác giả của The New Morality, đã nói: “Tình yêu tự do là một lý tưởng. Đáng tiếc, chỉ rất ít người có cái khả năng lý tưởng này.” Ông muốn nói rằng rất ít người trong chúng ta có đủ khả năng tự điều hợp để đạt được những mối quan hệ yêu thương đích thực cả trong lẫn ngoài gia đình. Tự do và kỷ luật quả là những nô tì; nếu ta không ấn định khuôn khổ cho tình yêu đích thực thì sự tự do sẽ trở thành tàn phá và không có ý nghĩa yêu thương chút nào cả.
Tới đây một số bạn đọc có thể cảm thấy quá ngán đối với ý niệm kỷ luật (hay quy phạm) và có thể kết luận rằng tôi đang ủng hộ cho một lối sống ảm đạm theo phái Calvin. Không ngừng giữ khuôn khổ!
Không ngừng tự tra xét! Bổn phận! Trách nhiệm! Khắc kỷ! Dù bạn gọi nó bằng tên gì đi nữa, thì tình yêu đích thực – với tất cả kỷ luật mà nó đòi hỏi – là con đường duy nhất trong cuộc sống dẫn ta đến niềm vui chân thực. Thử đi bằng ngả khác, bạn có thể gặp thấy vài khoảnh khắc rộn rã, nhưng rồi tất cả sẽ mau chóng tàn lụi, tắt ngúm.
Khi tôi yêu đích thực, tôi đang mở rộng mình ra; và khi tôi mở rộng mình ra là tôi đang lớn lên. Tôi càng yêu nhiều, tôi càng triển nở nhiều hơn. Tình yêu đích thực có sức làm sung mãn bản ngã. Tôi càng giúp người khác trưởng thành tinh thần thì chính tinh thần tôi sẽ lớn lên. Tôi là một con người hoàn toàn “ích kỷ”. Tôi không bao giờ làm bất cứ điều gì cho ai khác ngoài chính mình. Và khi tôi lớn lên trong tình yêu, niềm vui nơi tôi cũng lớn lên – một cách hiện thực hơn và triền miên hơn. Tôi là một người khắc kỷ, có lẽ. Song tôi cũng là một người tràn ngất niềm vui.
YÊU LÀ CHẤP NHẬN KHÁC BIỆT
Đành rằng khi ta giúp phát triển tinh thần của người khác thì ta cũng đang phát triển chính mình, song một đặc tính chủ yếu của tình yêu chân chính là sự phân biệt giữa mình và người khác luôn phải được duy trì và giữ gìn. Một người yêu thương đích thực luôn hiểu người mình yêu như một người có cá thể tính hoàn toàn khác biệt.
Hơn nữa, một người yêu đích thực luôn tôn trọng, thậm chí còn khuyến khích sự khác biệt và tính độc đáo này của người mình yêu.
Tuy nhiên, người ta rất thường không nhận hiểu và tôn trọng sự khác biệt này, và đó là nguyên nhân của nhiều chứng bệnh tâm thần và những nỗi đau khổ không đáng có.
Mức độ nghiêm trọng nhất của việc không hiểu sự khác biệt nơi người khác được gọi là chứng tự yêu mình (narcissism). Quả thực, những kẻ mắc chứng này thực sự không thể hiểu vợ, chồng, con cái hay bè bạn họ như một con người khác biệt với họ ở mức độ tâm cảm nào đó. Lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là chứng narcissism là trong một cuộc nói chuyện với cha mẹ một bệnh nhân tâm thần phân liệt, người mà tôi sẽ gọi là Susan. Lúc đó Susan 31 tuổi. Từ tuổi 18 Susan đã nhiều lần cố ý tự sát rất nghiêm trọng, cô đã phải điều trị hết bệnh viện này đến dưỡng đường khác suốt 13 năm qua.
Tuy nhiên, phần lớn nhờ vào sự chăm sóc tâm lý đặc biệt mà cô đã nhận được từ các bác sĩ tâm thần khác trong suốt những năm này, cuối cùng cô đã bắt đầu có cải thiện. Qua vài tháng chúng tôi làm việc cùng nhau, cô đã trở nên ngày càng biết tín nhiệm vào những người đáng tin cậy, biết phân biệt giữa người đáng tin cậy và người không đáng tin cậy, biết chấp nhận sự kiện rằng mình mắc chứng tâm thần phân liệt và cần nỗ lực rất nhiều trong quãng đời còn lại để đối phó với bệnh này, để biết tự trọng, biết cách tự chăm sóc mình mà không phải cậy dựa vào sự che chở thường xuyên của kẻ khác. Vì sự tiến bộ này tôi tin chắc là chẳng bao lâu nữa Susan có thể rời bệnh viện và cô sẽ biết sống độc lập như chưa bao giờ. Đó cũng là lúc tôi gặp bố mẹ Susan – một đôi vợ chồng dễ mến, giàu có ở tuổi ngoài năm mươi. Tôi đã hồ hởi mô tả cho họ sự tiến bộ của Susan, và giải thích chi tiết những nguyên nhân khiến tôi lạc quan.
Nhưng thật bất ngờ, ngay khi tôi bắt đầu giải thích, mẹ Susan bỗng lặng lẽ khóc và bà tiếp tục khóc trong khi tôi trao cho bà thông điệp đầy hy vọng của mình. Đầu tiên, tôi nghĩ có lẽ đó là những giọt nước mắt của niềm vui, nhưng qua sắc thái mà bà biểu lộ, rõ ràng người phụ nữ này đang hết sức buồn đau. Cuối cùng tôi nói: “Tôi không hiểu gì cả, bà X ạ. Tôi đang kể cho bà chuyện vui. Vậy cớ sao bà lại trông có vẻ quá buồn?”
Bà trả lời: “Tất nhiên tôi buồn. Tôi không thể không khóc khi nghĩ đến tất cả những gì Susan tội nghiệp phải chịu đựng”.
Thế rồi tôi tiếp tục giải thích dài dòng để cho bà biết rằng quả thực Susan đã đau khổ rất nhiều vì căn bệnh, song rõ ràng cô cũng đã học được nhiều điều từ căn bệnh này, cô đã thắng được nó – và theo sự ước đoán của tôi, trong tương lai, có lẽ cô sẽ không đau khổ nhiều hơn bất kỳ người trưởng thành nào. Thực vậy, Susan hẳn sẽ là người ít đau khổ hơn phần đông trong chúng ta – nhờ những bài học mà cô đã nhận được từ cuộc đấu tranh với bệnh tâm thần phân liệt. Bà X vẫn tiếp tục khóc lặng lẽ.
“Thành thật mà nói, tôi không hiểu gì cả, bà X ạ”, tôi nói, “Hơn 13 năm qua bà hẳn đã tham dự ít nhất hàng chục cuộc nói chuyện như hôm nay với các bác sĩ tâm thần của Susan – và theo tôi biết – không có lần nào đợc lạc quan như lần này. Sao bà không cảm thấy mừng vui mà bà lại buổn khổ?”
“Tôi duy chỉ nghĩ về cuộc sống của Susan sao mà khó khăn thế”.
Bà X trả lời đầy nước mắt.
“Này bà X”, tôi nói, “Tôi cam đoan tình trạng của Susan hiện nay là tình trạng đáng lạc quan nhất. Chúng ta phải mừng cho cô ấy”.
Bà X nức nở: “Ôi, Susan tội nghiệp”.
Bất chợt tôi nhận ra bà X không khóc cho Susan nhưng là đang khóc than cho chính bà. Bà đang khóc cho nỗi khổ đau của chính bà.
Và bởi vì tiêu điểm của cuộc nói chuyện giữa tôi với bà là Susan, nên bà đang mượn danh nghĩa của Susan mà khóc. Tôi tự hỏi: Làm sao mà bà ấy có thể làm như thế, và rồi tôi nhận ra rằng bà X thực sự không phân biệt được giữa bà và Susan. Điều mà bà cảm nhận, Susan phải cảm nhận. Bà đang dùng Susan như một phương tiện bộc lộ những nhu cầu của chính bà. Bà không làm điều này một cách có ý thức hay có ác tâm. Nhưng ở một mức độ tâm cảm nào đó bà không thể, quả thực không thể cảm nhận rằng Susan có một cá thể tính tách biệt với cá thể tính của bà. Susan chính là bà. Trong ý nghĩ của bà, Susan – trong tư cách là một cá nhân độc đáo, khác biệt với một lối sống độc đáo, khác biệt – hoàn toàn không tồn tại, mà có lẽ, bất cứ một ai khác cũng không. Xét về lý, bà X có thể nhìn nhận người khác như những cá thể khác hẳn bà. Nhưng ở một mức tâm cảm cao hơn, người khác đó không hiện hữu cho bà. Tự thâm tâm bà nghĩ toàn bộ thế giới chính là bà, bà X, một mình bà.
Trong những kinh nghiệm sau đó, tôi thường xuyên gặp các bà mẹ của con cái tâm thần phân liệt là những người mắc chứng tự yêu mình quá mức bình thường như bà X. Nói vậy không có nghĩa là những bà mẹ như thế bao giờ cũng bộc chứng tự yêu mình – hoặc không thể nuôi dạy được những con cái không tâm thần phân liệt.
Tâm thần phân liệt là một sự rối loạn vô cùng phức tạp, với tính di truyền hiển nhiên và với những yếu tố quyết định của môi trường.
Nhưng người ta có thể hình dung mức độ rối loạn trong thời thơ ấu của Susan gây ra bởi chứng tự yêu của mẹ cô; và một cách khách quan ai cũng có thể nhận thấy sự rối loạn này khi quan sát thực tế những bà mẹ tự yêu quan hệ với con cái của họ. Một buổi chiều nọ, khi bà X đang buồn rầu, Susan từ trường về nhà với mấy bức vẽ đã được thầy giáo cho điểm A. Susan khoe với mẹ một cách tự hào là cô đã tiến bộ nhiều trong môn họa, bà X sẽ đáp: “Susan, đi nghỉ đi.
Con không nên quá bận rộn như thế với chuyện bài vở. Trường học ngày nay thật tệ. Họ chẳng quan tâm chút nào đến trẻ em nữa”.
Ngược lại, vào một buổi khác, khi bà X đang ở trong tâm trạng rất phấn chấn, Susan về nhà trong nước mắt vì cô đã bị đám con trai chọc ghẹo trên xe buýt nhà trường, và bà X sẽ nói: “Con thật may mắn vì ông Jones là một tài xế tốt. Ông ấy rất dễ thương và đầy kiên nhẫn đối với tất cả bọn trẻ các con, nhất là những đứa hay làm ầm ĩ như con. Má nghĩ con nên tặng ông một món quà xinh xinh vào dịp Giáng sinh này”. Bởi vì họ không thể nhận thức được người khác như người khác mà chỉ là những bành trướng của chính họ, nên những người mắc chứng tự yêu thiếu khả năng thấu cảm, là khả năng cảm nhận điều mà người khác đang cảm nhận. Thiếu sự thấu cảm, những cha mẹ mắc chứng tự yêu thường đối xử với con cái mình ở một mức độ tâm cảm không thích đáng và họ không thể nhìn nhận các cảm nghĩ của con cái. Thế rồi, điều tất nhiên là những đứa con như thế lớn lên với những khó khăn cực kỳ trong việc hiểu và chấp nhận các cảm nghĩ của mình và do đó không làm chủ được các cảm xúc ấy.
Phần lớn người ta không “tự yêu” đến độ quá mức như bà X, song rất nhiều bậc cha mẹ thất bại một mức nào đó trong việc nhìn nhận và trân trọng cá thể tính độc đáo của con cái họ. Những ví dụ chung chung có thể được ghi nhận rất nhiều. Như cha mẹ nói về một đứa trẻ: “Nó giống hệt cha (mẹ) nó”, hay nói với nó: “Mày y như cậu Jim của mày”. Cơ hồ như con cái họ là bản sao nào đó của họ hay của dòng họ – trong khi quy luật về các kết hợp di truyền cho thấy rằng con cái rất khác với cha hoặc mẹ mình hoặc bất cứ vị tổ tiên nào của mình. Những ông bố ưa thể thao đẩy những đứa con hiếu học vào bóng đá, còn những ông bố hiếu học đẩy những đứa con thích thể thao vào sách vở, gây ra cho đứa con nhiều sự rối loạn và mặc cảm không cần thiết. Một người vợ của một vị tướng nọ thường xuyên phàn nàn về đứa con gái 17 tuổi: “Khi ở nhà, Sally cứ ngồi trong phòng suốt và viết những vần thơ bâng khuâng buồn. Thật là bệnh hoạn, thưa bác sĩ. Nó hoàn toàn từ chối không chịu đi ra ngoài chơi. Tôi e rằng nó có vấn đề”. Sau khi phỏng vấn Sally – một cô gái dễ mến, hoạt bát, người có tên trên bảng danh dự ở trường và có rất nhiều bạn bè – tôi nói với bố mẹ cô rằng tôi nghĩ Sally hoàn toàn lành mạnh và tôi đề nghị họ nên giảm áp lực trên cô, đừng ép cô làm một bản sao của chính họ. Họ rời bỏ tôi để tìm kiếm một nhà trị liệu khác một người nào đó có thể sẵn lòng tuyên bố rằng những nét khác biệt của Sally (so với cha mẹ cô) là một trục trặc lớn cần phải được điều chỉnh!
Nhiều người trẻ phàn nàn rằng họ bị đưa vào kỷ luật không bởi mối quan tâm đích thực của cha mẹ họ nhưng chỉ vì cha mẹ họ sợ rằng họ sẽ làm “mất mặt” gia đình. “Cha mẹ tôi luôn theo dõi để cắt tóc tôi”, một anh con trai nọ phát biểu, “Họ không thể giải thích tại sao tóc dài lại không tốt đối với tôi. Họ chỉ không muốn người khác thấy họ có những đứa con tóc dài. Họ thực sự chả quan tâm gì đến tôi. Họ thực ra chỉ đang quan tâm về bộ mặt của chính họ. Sự phẫn uất như thế của các thanh niên thường có lý do chính đáng. Quả thực, các bậc cha mẹ của họ thường không thể nhìn nhận cá thể tính độc đáo của con cái mình và thay vào đó họ xem con cái như sự bành trướng của chính họ – cũng giống hệt như một bộ áo quần đẹp, một thảm cỏ cắt tỉa xinh xắn hay một chiếc xe bóng lộn là “nét mặt” của chính họ chúng là biểu trưng cho địa vị của họ giữa thiên hạ. Chính là để lưu ý những bậc cha mẹ mắc chứng “tự yêu” – rất phổ biến ở một cấp độ nào đó – mà Kahlil Gibran đã viết những câu, có lẽ hay nhất từ trước đến nay, về việc nuôi dạy con như sau: Con cái bạn chẳng là của các bạn đâu.
Đó là con trai con gái của Sự Sống khát khao Sự Sống.
Chúng sinh ra thông qua các bạn chứ đâu phải từ các bạn.
Và cho dù chúng có ở cùng các bạn chúng vẫn chẳng thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình yêu nhưng không cho được tư tưởng.
Vì chúng có tư tưởng riêng của mình.
Các bạn có thể cho chúng nương thân nhưng không thể cho chúng nương náu tâm hồn.
Vì tâm hồn chúng ở trong ngôi nhà của ngày mai mà các bạn không thể tới thăm dù là trong mộng tưởng.
Bạn có thể cố công cố sức giống chúng, nhưng đừng tìm cách làm cho chúng giống mình.
Vì cuộc đời không đi giật lùi cũng chẳng nấn ná với ngày hôm qua.
Các bạn là những cánh cung từ đó những mũi tên sống là con cái các bạn được phóng đi.
Người Giương Cung hướng về dấu đích xa vô tận, và Người dùng sức mạnh uốn các bạn cho những mũi tên của Người vút đi thật xa.
Các bạn hãy vui vì được uốn cong bởi bàn tay Người Giương Cung.
Vì khi Người yêu mũi tên đang bay thì Người cũng yêu cả cánh cung đứng yên một chỗ.[1]
Việc thiếu khả năng nhận hiểu sự khác biệt của người khác sẽ gây trục trặc không chỉ cho vai trò làm cha mẹ mà còn cho mọi quan hệ khác nữa, bao gồm cả hôn nhân.
Cách đây không lâu, trong một nhóm các đôi vợ chồng, tôi đã nghe một thành viên tuyên bố rằng nhiệm vụ và chức năng của vợ anh ta là giữ nhà cửa gọn gàng và cho anh ta ăn ngon. Tôi choáng váng trước luận điệu đàn ông thống trị một cách trơ trẽn ấy. Nghĩ rằng cần giúp anh ta thấy sáng tỏ điều đó, tôi đã yêu cầu các thành viên khác nói xem họ nhận thức thế nào về nhiệm vụ và chức năng của vợ hay chồng họ. Thật kinh khủng khi sáu người khác, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều đưa ra những câu trả lời cũng tương tự như trên. Tất cả họ đều xác định nhiệm vụ và chức năng của vợ hay chồng bằng cách quy chiếu đến chính họ, tất cả đều không thể nhận hiểu rằng bạn đời của họ có thể có một sự hiện hữu khác biệt với sự hiện hữu của chính họ hay có thể có một định mệnh nào đó ngoài phạm vi đời sống hôn nhân. “Thảo nào” – tôi thốt lên – “Thật không lấy làm lạ là tất cả quí vị đều gặp khó khăn trong đời sống vợ chồng và quí vị sẽ không giải quyết được những khó khăn này cho đến khi quí vị nhận ra là mỗi một người trong quí vị có một định mệnh riêng của mình để hoàn thành”. Cả nhóm cảm thấy không những bị đụng chạm mà còn bối rối vô cùng bởi tuyên bố của tôi. Rồi – một cách hùng hổ – họ yêu cầu tôi xác định nhiệm vụ và chức năng của vợ tôi tôi trả lời: “Nhiệm vụ và chức năng của Lily là triển nở đến mức tốt nhất mà cô có thể, không phải cho lợi ích của tôi, nhưng cho chính cô ấy và để tôn vinh Thượng đế”. Tuy nhiên, quan niệm đó trong nhất thời vẫn nghe có vẻ rất lạ lẫm đối với họ.
Vấn đề độc lập trong những quan hệ mật thiết đã gây rắc rối cho loài người từ bao đời. Tuy nhiên, người ta thường đặt vấn đề đó trong khía cạnh chính trị hơn là hôn nhân.
Chẳng hạn, chủ nghĩa cộng sản thuần túy trình bày một triết lý không khác mấy với những cặp vợ chồng đã đề cập ở trên – nghĩa là: chức năng và nhiệm vụ của một cá thể là phục vụ cho một nhóm một tập thể, một xã hội. Duy chỉ có vận mệnh của quốc gia là đáng kể, vận mệnh của mỗi cá nhân được cho là không có tầm quan trọng nào cả. Đàng khác, chủ nghĩa tư bản thuần túy hậu thuẫn cho vận mệnh mỗi cá nhân ngay cả khi phải hy sinh nhóm, tập thể hay xã hội.
Các bà góa và trẻ mồ côi có thể chết đói, nhưng điều này không ngăn cản nhà doanh nghiệp hưởng thụ tất cả các thành quả của sáng kiến cá nhân họ. Thật là hiển nhiên đối với bất cứ đầu óc sáng suốt nào – là cả hai giải pháp trên đều không thành công. Sự lành mạnh của một cá nhân phụ thuộc vào sự lành mạnh của xã hội. Và sự lành mạnh của xã hội phụ thuộc vào sự lành mạnh của mỗi cá nhân trong đó.
Khi làm việc với các đôi vợ chồng, vợ tôi và tôi rút ra một loại suy giữa hôn nhân và một trại nghỉ chân của những người leo núi. Nếu một người muốn leo núi, người đó hẳn phải có một trạm nghỉ tốt, nơi có chỗ trú thân và các đồ dự phòng, nơi người đó có thể nhận dinh dưỡng và nghỉ ngơi trước khi lại tiến về phía trước tìm kiếm một đỉnh cao khác. Những nhà leo núi thành công biết rằng họ phải bỏ thời gian cho việc quan tâm đến trại – nếu không nhiều hơn thì ít nhất phải bằng – với thời gian leo núi thực sự, vì sự sống còn của họ phụ thuộc vào trại nghỉ có được xây dựng kiên cố và được bảo trì tốt hay không.
Một vấn đề xưa nay rất phổ biến về phía đàn ông trong hôn nhân.
Đó là nhiều người chồng – sau khi kết hôn, sẽ dốc trọn năng lực để trèo lên núi mà không một chút nào chú tâm đến cuộc hôn nhân – tức trại nghỉ. Đồng thời anh ta vẫn kỳ vọng trại nghỉ của mình vẫn ổn định hoàn hảo ở đó cho anh có thể quay lại để nghỉ ngơi và thư giãn bất cứ lúc nào – mà không nhận lấy bất cứ trách nhiệm nào trong việc củng cố nó. Không sớm thì muộn, cách thế có tính tư bản này thất bại. Anh ta quay về để tìm thấy ở trại cả một sự lộn xộn: người vợ bị bỏ mặc đã nằm viện do suy sụp thần kinh, hay đã bỏ đi theo một người đàn ông khác, hay nàng vẫn còn đó nhưng đã phủi tay với việc trông coi trại từ lâu rồi! Một vấn đề xưa nay rất phổ biến về phía nữ giới trong hôn nhân. Đó là nhiều người vợ – một khi đã kết hôn, cảm thấy đã đạt được mục tiêu đời mình. Đối với cô, trại nghỉ là chóp đỉnh, cô không thể hiểu và đồng cảm với những nhu cầu muốn thành đạt và những kinh nghiệm bên ngoài đời sống hôn nhân của chồng.
Cô phản ứng bằng sự ghen tuông và bằng những đòi hỏi bất tận rằng chồng cô phải cống hiến năng lực ngày một nhiều hơn cho gia đình. Giống như những giải pháp “cộng sản” khác cho vấn đề này giải pháp này tạo ra một mối quan hệ ngột ngạt và chán ngán, mà từ đó, người chồng cảm thấy bị bó buộc và bị hạn chế, rồi rất có thể sẽ đào tẩu trong một khoảnh khắc “khủng hoảng tuổi trung niên”. Phong trào giải phóng phụ nữ đã hữu ích trong việc chỉ ra giải pháp lý tưởng duy nhất: hôn nhân, trong tư cách là một cơ chế hợp tác đích thực, đòi hỏi cả hai người phải dành sự đóng góp và quan tâm rất lớn, phải dành cả thời gian và năng lực. Nhưng mục đích chủ yếu của hôn nhân là di dưỡng mỗi thành viên, thúc đẩy những hành trình phát triển tâm linh của mỗi cá nhân vợ hoặc chồng. Cả người nam và người nữ cần phải vừa quan tâm đến tổ ấm đồng thời phải dấn bước về phía trước.
Hồi còn thanh niên, tôi vốn thường rung động với câu nói rất cô đọng và hàm súc của nhà thơ nữ người Mỹ Ann Bradstreet nói với chồng bà: “Nếu trên đời này từng có hai nên một – thì đó là chúng ta”. Tuy nhiên, khi lớn lên, tôi nhận ra rằng chính sự khác biệt giữa vợ và chồng mới là nhân tố làm cho mối hiệp nhất của họ được phong phú. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp không thể được hình thành bởi những cá nhân sợ hãi và chạy trốn thân phận cô đơn tất yếu của con người, đi tìm kiếm một sự hòa tan trong cuộc hôn nhân. Đáng tiếc rằng thực tế lại thường diễn ra như thế. Tình yêu chân chính không chỉ tôn trọng cá vịtính của người khác mà còn thực sự tìm cách nuôi dưỡng nó – thậm chí dù phải trả giá bằng chia ly hoặc mất mát. Mục đích cuối cùng của cuộc nhân sinh vẫn là sự trưởng thành tinh thần của từng cá nhân, đó là cuộc hành trình cô đơn tiến đến những đỉnh cao mà người ta chỉ có thể đạt đến một mình. Cuộc hành trình quan trọng này không thể được hoàn thành nếu không có sự dinh dưỡng mà ta múc lấy từ một cuộc hôn nhân thành công hay một xã hội tốt đẹp. Hôn nhân và xã hội hiện hữu cho mục đích căn bản là nuôi dưỡng những cuộc hành trình cá nhân ấy. Tất nhiên, như trong mọi tình yêu chân chính, những “hy sinh” nhằm phục vụ cho sự trưởng thành của người khác bao giờ cũng làm cho chính bản thân mình lớn lên không kém. Đến lượt mình và từ tầm cao mà mình vươn tới được, cá nhân sẽ phục vụ cho việc thăng tiến hôn nhân và xã hội – đẩy những cơ chế này lên những tầm cao mới. Tắt một lời sự trưởng thành của cá nhân và xã hội có tính hỗ tương phụ thuộc nhau. Và một điều chắc chắn là sự cô đơn bao giờ cũng còn đó trên tiến trình trưởng thành, Nhà tiên tri Kahlil Gibran, từ niềm cô đơn minh trí của ông, lên lời với chúng ta về thực tại hôn nhân:
Nhưng khi bên nhau, hãy để chừa khoảng cách.
Và để gió trời nhảy múa ở giữa.
Hãy yêu nhau nhưng đừng biến tình yêu thành xiềng xích.
Mà để nó như biển chao động giữa các bến bờ tâm hồn các bạn.
Hãy rót đầy ly của nhau nhưng đừng chỉ uống từ một chiếc ly.
Hãy nhảy múa ca hát vui vẻ cùng nhau, song hãy để mỗi người được một mình.
Ngay cả các sợi dây của một cây đàn cũng riêng tư cho dù chúng cùng rung theo một nhạc điệu.
Hãy trao trái tim, nhưng đừng cầm giữ trái tim nhau.
Bởi vì chỉ có bàn tay Sự Sống mới có thể chứa đựng nổi trái tim của bạn.
Hãy đứng bên nhau song đừng quá sát gần nhau.
Vì cột đền cũng đứng tách riêng, và cây sồi cùng cây trắc bá không mọc dưới bóng của nhau.(1)
TÌNH YÊU VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU
Thật chẳng dễ chút nào cho tôi việc ghi nhận lại động cơ và ý hướng đã thúc đẩy mình dấn bước vào lãnh vực tâm thần học mười lăm năm về trước. Đã hẳn là tôi muốn “giúp” người khác. Việc giúp đỡ người khác trong các ngành y học khác đều có liên quan đến kỹ thuật, mà tôi thì không thích thú mấy với kỹ thuật – bởi tôi nhận thấy nó quá máy móc. Đồng thời tôi cũng cảm thấy rằng nói chuyện với người ta thì vui hơn là điều tra khám xét thân thể họ. Hơn nữa, theo tôi, các sự cố trong tâm trí con người thì thú vị hơn nhiều so với các sự cố thể lý của họ. Ban đầu tôi không có ý niệm gì về cách thế mà các bác sĩ tâm thầm giúp đỡ người ta. Tôi chỉ mường tượng rằng bác sĩ tâm thần là người có những lời nói và những kỹ thuật có tính pháp thuật khi tiếp xúc với bệnh nhân – nhờ đó giúp giải tỏa những gút mắc trong tâm thần bệnh nhân bằng một cách thế phù phép nào đó. Có lẽ tôi muốn trở thành một nhà phù thủy. Quả thực hồi ấy tôi chẳng có mấy ý thức rằng công việc của một bác sĩ tâm thần có mối liên quan đến sự trưởng thành tinh thần của bệnh nhân. Tôi càng không hề ý thức rằng công việc này, một cách nào đó, có liên quan đến sự trưởng thành tinh thần của chính mình.
Trong mười tháng thực tập đầu tiên, tôi đã làm việc với những bệnh nhân nội trú bị rối loạn ở mức độ cao. Những bệnh nhân này xem ra nhận được nhiều kết quả từ thuốc men hay từ các liệu pháp vật lý hơn là từ những cuộc tiếp xúc với tôi. Dù sao, tôi cũng đã học được một số câu nói và một số kỹ thuật để đối thoại với họ. Sau giai đoạn này tôi bắt đầu đảm nhận việc trị liệu tâm lý dài hạn cho các bệnh nhân tâm thần ngoại trú. Người đầu tiên là một phụ nữ, tôi sẽ gọi cô là Marcia. Marcia gặp tôi mỗi tuần ba lần. Đây là một ca đầy thử thách. Cô không bao giờ nói về những chuyện mà tôi muốn cô nói. Cô cũng chẳng bao giờ nói về những chuyện đó theo cách mà tôi muốn. Đôi khi, cô thậm chí chẳng chịu hé môi gì cả. Có thể nói giữa tôi và cô có một sự khác biệt sừng sững về quan điểm bậc thang giá trị. Trong cuộc đấu tranh này, cô bảo vệ quan điểm của cô, còn tôi bảo vệ quan điểm của tôi. Cuộc giằng co cứ tiếp tục, mặc dù tôi vận dụng hết kiểu nói này đến kỹ thuật khác để thuyết phục cô. Chẳng có dấu hiệu gì nơi Marcia cho thấy tình hình sáng sủa cả. Thật vậy, chỉ sau một thời gian ngắn gặp tôi, Marcia bắt đầu bộc lộ thái độ dở hơi bướng bỉnh – và suốt nhiều tháng liền, cô đã có vô số những phản ứng khiến tôi dở khóc dở cười. Cuối cùng, sau một năm cò cưa, cô đột ngột hỏi tôi giữa một buổi tiếp xúc: “Ông có nghĩ rằng tôi là một đồ thối không?”
“Cô muốn tôi nói cho cô biết tôi nghĩ thế nào về cô, phải không?” tôi trả lời, rồi cố tình thinh lặng một chốc lát.
Marcia nhìn nhận rằng quả cô muốn được nghe tôi nhận xét về cô. Nhưng tôi sẽ nói sao đây? Những ngôn từ, kỹ thuật hay cử chỉ có tính “chiến lược” sẽ ích lợi gì không trong tình thế này? Nên chăng nói với cô: “Tại sao cô hỏi điều đó?”, hoặc “Cô cho rằng tôi nghĩ gì về cô?”, hoặc “Này Marcia, điều quan trọng không phải ở chỗ tôi nghĩ gì về cô mà là ở chỗ cô nghĩ gì về chính mình!”... Tuy nhiên tự thâm tâm mình tôi cho rằng những cách nói ấy đều vô nghĩa. Sau một năm gặp tôi đều đặn mỗi tuần ba lần, người phụ nữ này ít nhất cũng có quyền nhận được một câu trả lời chân thành về chuyện tôi nghĩ gì về cô chứ! Chỉ có điều gay go là tôi chưa từng được dạy cho biết cách xử lý tình hình theo hướng này; trong những lời nói và những kỹ thuật mà tôi học được trước kia không có bao gồm chuyện thành thật nói thẳng với bệnh nhân về điều mà mình nghĩ về họ. Chính sự kiện ấy cũng làm cho tôi hoang mang: liệu chọn lựa của mình là sai lầm một chọn lựa mà không một bác sĩ tâm thần nào chấp nhận! Phải làm sao đây? Giữa bao nhiêu ý nghĩ trĩu nặng như thế, tôi quyết định đi con đường mình. “Marcia”, tôi nói, “cô đã đến gặp gỡ thường kỳ với tôi hơn một năm rồi. Trong suốt thời gian ấy, mọi sự không hề êm thắm giữa chúng ta. Chúng ta đã đấu tranh với nhau trong phần lớn thời gian, và cả hai chúng ta đều cảm thấy bực mình, chán nản trong các buổi gặp như thế. Dù vậy, cô vẫn tiếp tục đến gặp tôi hết buổi này đến buổi khác, hết tuần này sang tuần khác, tháng này sang tháng khác. Cô đã cố gắng phi thường mới có thể kiên trì như vậy.
Chắc hẳn cô đã không thể kiên trì nếu cô không phải là một con người quyết tâm thay đổi và sẵn sàng chấp nhận vất vả để làm cho chính mình nên tốt hơn. Tôi không thể cho là đồ thối bất cứ ai biết tích cực quan tâm đến sự trưởng thành của mình như vậy. Vì vậy câu trả lời của tôi là ‘Không’, tôi không nghĩ cô là đồ thối. Trái lại, tôi thực sự rất ngưỡng mộ cô”.
Từ trong số hàng tá người tình của mình, Marcia đã lập tức chọn một chàng – và thiết lập một mối quan hệ đầy ý nghĩa với anh ta cuối cùng hai người kết hôn và xây dựng được một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Cô không bao giờ có thái độ kỳ cục, dở hơi nữa. Cô bắt đầu biết nói về những điểm tốt nơi bản thân mình. Tâm trạng nặng nề mệt mỏi đột nhiên tan biến cả nơi cô và nơi tôi. Công việc của chúng tôi trở thành rất trôi chảy và thích thú, với những tiến bộ nhanh chóng và đáng kể. Thì ra, lạ lùng làm sao, bước chuyển biến quyết định đã xảy ra khi tôi can đảm bày tỏ những cảm nghĩ tích cực và chân thành của mình cho cô – một điều không nằm trong bài bản của một bác sĩ tâm thần – và kết quả là cô không phản ứng tiêu cực mà trái lại đã nhận được một hiệu ứng trị liệu lớn lao.
Điều đó có nghĩa gì? Có phải có nghĩa rằng tất cả những gì chúng ta phải làm để thực hành tâm lý trị liệu một cách hữu hiệu là phải nói với bệnh nhân rằng mình nghĩ rất tốt về họ? Không phải thế.
Trước hết, ta phải trung thực khi tiến hành một cuộc trị liệu. Tôi đã thực sự ngưỡng mộ Marcia. Thứ hai, sự ngưỡng mộ của tôi là một điều rất có ý nghĩa đối với Marcia bởi vì tôi đã biết cô trong một quá trình làm việc trị liệu lâu dài với cô. Thực ra, cốt lõi của bước chuyển biến quyết định ấy không xuất phát từ việc tôi đánh giá cao về cô, mà xuất phát từ chính bản chất mối quan hệ giữa chúng tôi.
Một sự chuyển biến quan trọng tương tự cũng xảy ra với một nữ bệnh nhân rất trẻ khác – mà tôi sẽ gọi là Helen. Suốt chín tháng ròng rã Helen đến gặp tôi hai lần mỗi tuần, song tình trạng của nàng xem ra chẳng khả quan hơn chút nào. Phần mình, tôi không cảm thấy có mấy ấn tượng tích cực về nàng. Thật vậy, qua ngần ấy thời gian, tôi thậm chí không xác định được nàng là ai và bản chất vấn đề của nàng là gì – một trường hợp chưa từng xảy ra trong nghề nghiệp của tôi. Tôi hoàn toàn lúng túng bởi người phụ nữ này đến nỗi tôi đã phải trằn trọc nhiều đêm để tìm một đối sách khai thông sự bế tắc, song mọi cố gắng của tôi đều vô hiệu. Tôi chỉ khám phá một điều rất rõ ràng, đó là Helen không tín nhiệm tôi. Nàng cứ lải nhải phàn nàn rằng tôi không thực sự quan tâm đến nàng trong bất cứ khía cạnh nào rằng tôi chỉ quan tâm đến tiền của nàng mà thôi. Trong một buổi gặp vào tháng trị liệu thứ chín, Helen nói: “Thưa bác sĩ Peck, ông không thể tưởng tượng được tôi chán nản đến mức nào để tiếp tục đến với ông – trong khi ông hoàn toàn lãnh đạm đối với tôi và do đó không chú ý gì đến các cảm nghĩ của tôi”.
“Helen – tôi trả lời – dường như cả tôi và cô đều chán nản. Tôi không biết cô nghĩ sao về trường hợp này, còn tôi, trong suốt mười năm hành nghề trị liệu tâm lý, cô là trường hợp chán nản nhất mà tôi từng gặp. Tôi chưa bao giờ gặp bất cứ ai mà với ngần ấy thời gian tôi lại không giúp được cho họ nhiều hơn mức này. Có lẽ cô đúng khi tin rằng tôi không phải là người phù hợp để làm việc với cô. Phần tôi tôi không xác quyết như vậy, cũng không xác quyết rằng không phải như vậy. Tôi không hề có ý muốn bỏ cuộc, dù làm việc với cô thật không chút thoải mái cho tôi. Tôi chỉ day dứt mãi vì không biết đâu là cái trục trặc trong công việc giữa chúng ta”.
Một nụ cười sáng lên trên khuôn mặt Helen. Nàng thốt lên: “Vậy thì, té ra là ông có quan tâm tới tôi!”
Tôi ngơ ngác chưa kịp hiểu Helen muốn nói gì, nàng giải thích: “Nếu ông thực sự không quan tâm đến tôi, thì chắc chắn ông đã không cảm thấy chán nản đến thế”.
Buổi gặp tiếp sau đó, Helen bắt đầu kể cho tôi nghe những điều mà trước đó nàng chưa bao giờ chân thành bộc lộ. Và chỉ trong một tuần, tôi đã nhận ra được bệnh trạng căn bản của nàng, có thể đưa ra kết luận chẩn đoán và vạch phương hướng điều trị.
Một lần nữa, thái độ của tôi đối với Helen đã trở thành một yếu tố đầy ý nghĩa cho nàng – chính là nhờ ở mức độ dấn thân sâu sắc của tôi đối với nàng và nhờ ở cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chúng tôi.
Giờ đây, chúng ta có thể nhận ra đâu là yếu tố thiết yếu làm cho cuộc trị liệu tâm lý gặt hái được kết quả và thành công. Đó không phải là sự tung hứng những lời khen tặng vô căn cứ, cũng không phải là bất cứ những lời nói hay những kỹ thuật có tính pháp thuật nào. Yếu tố thiết yếu ấy chính là sự dấn thân và liên đới của chính con người mình. Đó là thái độ sẵn lòng của nhà trị liệu mở rộng mình ra để phục vụ cho sự trưởng thành của bệnh nhân, đó là thái độ sẵn lòng dám liều bước ra khỏi mọi hầm trú ẩn bảo vệ mình, thực sự dấn thân mình vào trong mối quan hệ với một mức độ tâm cảm nào đó, thực sự đấu tranh với bệnh nhân và cả với chính mình. Nói tóm lại, yếu tố thiết yếu làm cho một cuộc trị liệu tâm lý gặt hái thành công chính là tình yêu.
Thật đáng ngạc nhiên khi ta nhận ra rằng các sách vở chuyên môn về tâm lý trị liệu ở Tây phương không hề đề cập đến khía cạnh tình yêu. Các vị đạo sư Ấn giáo thường nhìn nhận rằng chính tình yêu là nguồn sức mạnh của họ. Trong khi đó, những tài liệu đề cập gần gũi nhất đến khía cạnh này ở Tây phương chỉ là một số bài báo nhằm phân tích những khác biệt giữa một nhà trị liệu thành công và một nhà trị liệu không thành công – và các bài báo ấy thường kết thúc bằng cách đề cập đến những đặc điểm của một nhà trị liệu thành công như “nồng nhiệt” và “thấu cảm”. Một cách căn bản, xem ra chúng ta bị lúng túng trước đề tài tình yêu. Có nhiều lý do giải thích sự lúng túng này. Một trong các lý do đó là sự lẫn lộn giữa tình yêu đích thực và tình yêu lãng mạn. Nền văn hóa của chúng ta bị nhiễm quá nặng loại tình yêu lãng mạn. Ngoài ra, còn có những sự lẫn lộn khác nữa mà chúng ta đã đề cập đến trong các mục trước của phần này. Lý do thứ hai là chúng ta quá thiên về những phương diện có tính lý luận rõ ràng, những phương diện cân đo đong đếm được trong “y khoa”. Tâm lý trị liệu há không phải là một nghề bắt rễ từ “y khoa” đó sao! Đàng khác, tình yêu là cái không có tính rõ ràng xác định, hoàn toàn không cân đo được và vượt trên bình diện lý luận – bởi vậy người ta không thể dùng những phân tích khoa học để tiếp cận tình yêu được.
Một lý do nữa nằm ở nơi sức chi phối của một truyền thống tâm phân trong tâm thần học, một truyền thống mà các môn đệ của Freud – chứ không phải chính Freud – đã tạo ra. Trong truyền thống này mọi cảm xúc tình yêu mà bệnh nhân có đối với nhà trị liệu thường được dán cho nhãn hiệu “chuyển vị” (transference) – và mọi cảm xúc tình yêu mà nhà trị liệu có đối với bệnh nhân của mình đều được giải thích như một “đối chuyển vị” (countertransference), với hàm ý rằng những cảm xúc như thế là bất bình thường, là một phần của vấn đề thay vì là giải pháp cho vấn đề – và do đó cần phải tránh những cảm xúc như thế. Thật không có gì vô lý hơn! Chuyển vị – như chúng ta đã đề cập trong phần trước – là những cảm xúc, những cảm nhận những thái độ phản ứng không phù hợp. Trong khi đó, chẳng có gì là không phù hợp khi một bệnh nhân yêu một nhà trị liệu – là người chân thành lắng nghe mình giờ này sang giờ khác và lắng nghe một cách không phê phán. Chẳng có gì là không phù hợp khi một bệnh nhân yêu một nhà trị liệu – là người thực sự chấp nhận mình (có khi cả đời mình chưa có ai chấp nhận mình đến mức như vậy. Chẳng có gì là không bình thường khi một bệnh nhân yêu một nhà trị liệu – là người dứt khoát từ chối sử dụng mình và là người có khả năng giúp mình xoa dịu những nỗi đau.
Cũng vậy, chẳng có gì là không phù hợp khi một nhà trị liệu tâm lý, trong nhiều phương diện, không khác với tiến trình làm cha mẹ.
Sự việc một nhà trị liệu có cảm xúc yêu đối với bệnh nhân của mình – khi thấy bệnh nhân tự ý chấp nhận những khuôn khổ của tiến trình trị liệu, hợp tác tích cực trong tiến trình này, sẵn sàng lắng nghe và học hỏi, và thể hiện những bước tiến bộ xuyên qua mối quan hệ. Một tiến trình trị liệu có cảm xúc yêu bệnh nhân cũng tự nhiên y như một người cha hay mẹ có cảm xúc yêu thương con cái mình. Thậm chí ta có thể nói rằng điều kiện thiết yếu để cho một cuộc trị liệu thành công đó là nhà trị liệu phải yêu thương bệnh nhân của mình. Một cuộc trị liệu thành công bao giờ cũng bao hàm mối quan hệ yêu thương nhau giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Chắc chắn nhà trị liệu sẽ cảm nghiệm những cảm xúc yêu thương tương hợp với tình yêu đích thực mà mình đã thể hiện cho bệnh nhân của mình.
Trong phần lớn các trường hợp, bệnh tâm thần có nguyên nhân nằm ở sự thiếu vắng tình yêu mà một đứa trẻ cần nhận được từ cha mẹ nó – để nhờ đó nó có thể lớn lên và phát triển cả thể lý lẫn tinh thần. Vì thế, nếu muốn cho cuộc trị liệu được thành công, bệnh nhân phải nhận được từ nhà trị liệu ít nhất một phần của loại tình yêu đích thực mà mình vốn đã không nhận được. Nếu nhà trị liệu không thể yêu bệnh nhân một cách đích thực, thì sự chữa trị đích thực cũng sẽ không diễn ra. Dù nhà trị liệu có là một tay sành sõi chuyên môn mấy đi nữa, nếu anh ta không thể mở con người mình ra để đón nhận bệnh nhân của mình bằng một tình yêu chân thực, thì cuộc trị liệu cuối cùng thường chẳng đạt tới một kết quả nào đáng kể. Đàng khác một nhà trị liệu mới tập tễnh vào nghề với trình độ chuyên môn sơ sài, song nếu thể hiện có một năng lực yêu thương cao độ, thì sẽ gặt hái những kết quả trị liệu không thua kém các bác sĩ tâm thần cự phách nhất.
Vì tình yêu và giới tính có mối liên hệ mật thiết và gắn kết với nhau, ở đây ta cũng cần phải đề cập sơ qua vấn đề về các mối quan hệ dục tính giữa các bác sĩ trị liệu và bệnh nhân của họ, một vấn đề mà hiện nay báo chí rất ưa khai thác. Mối quan hệ giữa nhà trị liệu tâm lý và bệnh nhân của mình – tự bản chất của nó – phải là một mối quan hệ mật thiết và đầy yêu thương; vì thế điều dễ hiểu là cả hai thường đi đến chỗ thu hút nhau mãnh liệt về giới tính. Những thu hút ấy có thể mạnh đến nỗi cả hai người bị đẩy tới chỗ muốn quan hệ tình dục với nhau. Một số những người (trong nghề trị liệu tâm lý) chỉ trích một đồng nghiệp nào đó của mình nếu anh ta có quan hệ tình dục với một bệnh nhân – tôi tưởng rằng bản thân các vị ấy hẳn không phải là những nhà trị liệu biết yêu thương và, do đó, hẳn không thực sự hiểu những áp lực giới tính ở đây mạnh đến mức nào. Phần tôi, nếu tôi rơi vào trường hợp trong đó tôi xác định (sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng) rằng việc quan hệ tình dục giữa tôi và bệnh nhân sẽ đóng vai trò quyết định giúp bệnh nhân tiến xa trên con đường trưởng thành tinh thần, thì tôi sẽ không ngần ngại dấn thân vào những cuộc quan hệ tình dục như vậy. Tuy nhiên, tới nay sau mười lăm năm hành nghề, tôi chưa bao giờ gặp một trường hợp nào như vậy – và tôi nhận thấy rằng thật khó tưởng tượng có thể thực sự có một trường hợp như vậy. Trước hết, như chúng ta đã đề cập, vai trò của một nhà trị liệu chủ yếu là vai trò làm cha mẹ; và các bậc cha mẹ đứng đắn thì không thể quan hệ tình dục với con cái mình – vì một số lý do hết sức nền tảng và khẩn thiết. Công việc của cha mẹ là phục vụ thiện ích cho con cái mình, chứ không phải là sử dụng con cái cho sự thỏa mãn của bản thân mình. Cũng vậy, công việc của nhà trị liệu là phục vụ thiện ích cho bệnh nhân chứ không phải là sử dụng bệnh nhân để phục vụ cho những nhu cầu của nhà trị liệu.
Công việc của cha mẹ là khích lệ con mình tiến tới chỗ độc lập; công việc của nhà trị liệu đối với bệnh nhân cũng vậy. Trong trường hợp một nhà trị liệu có quan hệ tình dục với bệnh nhân, thật khó mà tưởng tượng rằng anh ta không đang sử dụng bệnh nhân để thỏa mãn các nhu cầu của riêng mình – và cũng thật khó mà tin rằng anh ta đang thúc đẩy bệnh nhân của mình tiến tới độc lập.
Nhiều bệnh nhân, nhất là những người có nét lẳng lơ nhất, có những vướng víu tình dục với cha mẹ mình – và tình trạng này sẽ làm bế tắc sự tự do và trưởng thành của họ. Cả lý thuyết lẫn một số chứng cứ thực tiễn ghi nhận được cho thấy rằng một quan hệ tình dục giữa một nhà trị liệu và một bệnh nhân như thế sẽ càng làm trầm trọng thêm tình trạng ấu trĩ của bệnh nhân đúng hơn là giúp tháo gỡ tình trạng ấy. Ngay cả dù cho mối quan hệ ấy không phát triển tới chỗ quan hệ tình dục đầy đủ, thì nguyên việc bác sĩ trị liệu “phải lòng” bệnh nhân cũng đã là chuyện tai hại lắm rồi. Bởi vì, như ta đã thấy phải lòng liên quan tới một sự sụp đổ các vành đai bản ngã và làm sụt giảm cảm thức khác biệt vốn tồn tại giữa hai cá nhân.
Khi phải lòng bệnh nhân của mình, nhà trị liệu khó có thể khách quan nhận định các nhu cầu của bệnh nhân và khó có thể phân biệt đâu là nhu cầu của bệnh nhân và đâu là nhu cầu của chính mình.
Chính vì yêu bệnh nhân mà nhà trị liệu sẽ không cho phép mình dễ dàng phải lòng bệnh nhân. Bởi vì tình yêu đích thực đòi ta phải tôn trọng cá thể tính khác biệt của người mình yêu, nên một nhà trị liệu biết yêu thương đích thực sẽ xác tín rằng cuộc đời của bệnh nhân phải đừng vương vấn vào cuộc đời của mình. Đối với một số nhà trị liệu, điều đó có nghĩa rằng giữa họ với bệnh nhân không nên có dính líu gì thêm ngoài những giờ gặp gỡ trị liệu. Riêng tôi, dù tôn trọng quan điểm đó, tôi vẫn cảm thấy không cần phải đến mức khắt khe như vậy. Tôi đã từng trải qua một kinh nghiệm trong đó mối liên lạc giữa tôi và một bệnh nhân cũ (đã chấm dứt trị liệu với tôi) xem ra trở thành yếu tố gây tai hại cho đương sự; dù vậy, trong nhiều trường hợp khác, việc liên lạc với các bệnh nhân cũ đã tỏ ra hữu ích cho cả họ lẫn tôi. Tôi cũng đã may mắn giúp trị liệu thành công một số bạn hữu rất thân. Dù sao đi nữa, việc liên lạc giữa bệnh nhân và nhà trị liệu bên ngoài văn phòng trị liệu – hay thậm chí sau khi cuộc trị liệu đã hoàn toàn kết thúc – là một việc phải hết sức thận trọng và sáng suốt. Nếu không, ta có thể lộng giả thành chân và rốt cục chỉ là đáp ứng nhu cầu của mình trong khi bệnh nhân chẳng được ích lợi gì.
Chúng ta đã khảo sát thấy rằng tiến trình trị liệu tâm lý phải là một tiến trình của tình yêu đích thực, và ý niệm này xem ra trái ngược với quan điểm xưa nay trong giới trị liệu tâm thần. Xoay ngược hướng nhìn lại, cũng có một vấn đề thú vị không kém: Nếu tâm lý trị liệu phải bao hàm tình yêu đích thực, thì phải chăng – ngược lại – tình yêu bao giờ cũng cần bao hàm tính chất trị liệu tâm lý trong đó? Nếu chúng ta thực sự yêu thương vợ (hay chồng) mình, cha mẹ mình con cái mình, bạn hữu mình, nếu chúng ta mở rộng chính mình ra để di dưỡng sự phát triển tinh thần của họ, thì chúng ta có nên thực hành trị liệu tâm lý với họ? Câu trả lời của tôi là: rất nên. Nhiều khi trong những cuộc hàn huyên, có người đặt vấn đề với tôi: “Này bác sĩ Peck, chắc hẳn là ông không dễ dàng gì để tách biệt đời sống nghề nghiệp ra khỏi đời sống gia đình của ông – phải không? Ông có hay méo mó nghề nghiệp để thỉnh thoảng phân tích các vấn đề tâm lý của vợ con và bạn bè không?” Thường thường thì người ta chỉ muốn giễu tôi như thế chứ họ không quan tâm tới một câu trả lời nghiêm túc. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp thuận tiện để tôi trả lời nghiêm túc – và tôi đã giải thích tại sao tôi không cố, thậm chí không muốn, tách biệt nghề nghiệp mình ra khỏi đời sống gia đình mình. Nếu tôi nhận thấy vợ, con, cha mẹ hay bạn bè tôi đang gặp khó khăn tâm thần vì một ảo tưởng nào đó, một sự sai lầm nào đó, một sự ức chế không cần thiết nào đó, tôi sẽ có trách nhiệm mở rộng chính mình ra để giúp điều chỉnh tình hình trong mức độ mà mình có thể – cũng y như tôi làm cho các bệnh nhân (là những người trả thù lao cho tôi) vậy. Chẳng lẽ tôi nên cất giấu khả năng nghề nghiệp của mình, khóa chốt tình yêu của mình lại trước nhu cầu của gia đình và bạn bè mình chỉ vì họ không chính thức ký hợp đồng điều trị và không trả tiền công cho tôi? Tôi có thể là một người bạn tốt, một người cha tốt, một người chồng tốt hay một người con tốt không – nếu tôi không tận dụng những cơ hội có sẵn để cố gắng giúp cho những người thân hiểu những gì mình hiểu và tận dụng khả năng của mình để thúc đẩy họ tiến lên trên con đường trưởng thành tinh thần? Hơn nữa, chính tôi cũng mong nhận được những sự giúp đỡ như thế từ người thân của mình, theo mức độ khả năng của họ. Mặc dù con cái tôi có những lúc đưa ra những nhận xét quá thô sơ về tôi tôi đã học hỏi được rất nhiều từ chúng. Còn vợ tôi, cô ấy hướng dẫn tôi không kém chi so với tôi hướng dẫn cô ấy. Tôi không coi người này người kia là bạn nếu như họ không thành thật nói ra những điều họ không đồng ý với tôi và nếu họ không thật lòng quan tâm đến cuộc hành trình phát triển tinh thần của tôi. Do đó, bất cứ một quan hệ yêu thương đích thực nào cũng là một tiến trình trị liệu tâm lý lẫn nhau.
Phải nhận rằng không phải bao giờ tôi cũng ý thức được vấn đề như thế. Trước đây, trong nhiều năm, tôi thích được vợ mình khen ngợi hơn là phê bình – và tôi cố áp đặt cô ấy vào thế phụ thuộc không kém chi so với nỗ lực giúp cô ấy độc lập hơn. Hình ảnh của một người chồng, người cha mà tôi khắc họa cho mình là hình ảnh của một nhà cung cấp; tất cả trách nhiệm của tôi là lo cho vợ con có cái ăn cái mặc. Tôi muốn mái nhà của mình phải là một nơi thoải mái chứ không phải là nơi đặt ra cho mình những thách đố. Hồi ấy xem ra tôi nghiêng về phía quan điểm cho rằng một bác sĩ tâm lý trị liệu không nên vận dụng nghề nghiệp của mình đối với người thân hay bạn bè. Quan điểm ấy một phần do lười biếng và một phần do nỗi e ngại “bụt nhà không thiêng”. Làm trị liệu tâm lý – cũng như tình yêu – là một công việc, và làm việc 8 tiếng đồng hồ một ngày thì bao giờ cũng dễ chịu hơn là làm 16 tiếng! Và đối với một người tự nguyện đi tìm sự khuyến cáo giúp đỡ của mình, một người bỏ tiền ra trả công cho mình, một người mà mỗi lần gặp không đòi mình quá 50 phút... thì bao giờ cũng dễ chịu hơn so với một người xem sự săn sóc của mình là đương nhiên, một người có thể có những đòi hỏi không giới hạn đặt ra cho mình, một người không xem mình như kẻ có thẩm quyền và không tha thiết xin mình hướng dẫn. Thực hành trị liệu tâm lý cho người nhà hay cho bạn bè là một việc đòi hỏi sự cố gắng triệt để và sự khuôn khổ không kém so với những cuộc trị liệu tại văn phòng. Thế nhưng ở nhà thì không có những điều kiện lý tưởng như ở văn phòng. Vì vậy có thể nói việc trị liệu tâm lý cho người nhà thậm chí đòi hỏi nhiều cố gắng và nhiều tình yêu hơn. Tôi hy vọng các đồng nghiệp của tôi đừng nghĩ rằng tôi đang hô hào họ xắn tay áo lên lao vào làm trị liệu ngay lập tức cho vợ, chồng, con cái mình. Trên con đường trưởng thành tinh thần, bao lâu người ta còn đang bước đi thì bấy lâu khả năng yêu thương của người ta còn có thể triển nở.
Song khả năng đó luôn luôn có giới hạn – và rõ ràng là ta không nên thực hành trị liệu tâm lý vượt mức khả năng yêu thương của mình, vì làm tâm lý trị liệu mà không yêu thương thì sẽ thất bại và thậm chí gây tai hại. Nếu bạn có thể yêu thương sáu giờ mỗi ngày, hãy tạm hài lòng với mức đó trong một thời gian. Tiềm năng của bạn còn nhiều và con đường còn dài, bạn cần có thời gian để khả năng của bạn phát triển. Việc thực hành trị liệu tâm lý với bạn bè và người thân, tức việc yêu thương nhau toàn thời gian, là một lý tưởng, một mục tiêu cho ta phấn đấu chứ không thể đạt được cấp kỳ.
Như tôi đã xác nhận, bất cứ một người bình thường nào cũng có thể thực hành trị liệu tâm lý một cách thành công (mà không cần nhiều sự đào tạo công phu lắm) miễn là họ biết yêu thương đích thực. Vì vậy, tất cả những gì vừa nói trên (liên quan đến việc trị liệu tâm lý cho bạn bè và gia đình) không duy chỉ áp dụng cho các nhà trị liệu chuyên nghiệp mà thôi – song là áp dụng cho mọi người. Đôi khi có những bệnh nhân hỏi tôi rằng bao giờ thì họ đủ tiêu chuẩn để chấm dứt cuộc trị liệu của họ; tôi thường trả lời: “Đó là khi chính anh có thể đóng tốt vai trò của một nhà trị liệu tâm lý.” Câu trả lời ấy đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh trị liệu nhóm; vì ở các nhóm trị liệu, các bệnh nhân thực hành trị liệu lẫn nhau và những thất bại của họ sẽ được vạch ra cho họ thấy. Nhiều bệnh nhân không thích câu trả lời trên kia của tôi, có người nói thẳng: “Như vậy thì gay go quá. Như vậy thì lúc nào tôi cũng phải suy nghĩ về các mối quan hệ giữa mình với người xung quanh. Phiền lắm! Tôi không muốn vất vả như thế đâu. Tôi chỉ muốn thoải mái với chính mình.” Các bệnh nhân cũng thường trả lời tương tự khi tôi khẳng định với họ rằng tất cả các cuộc giao tiếp giữa người với người đều là những cơ hội để người ta học một cái gì đó hoặc dạy một cái gì đó (tức nhận trị liệu hoặc làm trị liệu) – nếu họ không học cũng chẳng dạy được gì trong một cuộc giao tiếp thì ấy là họ đang để nhỡ mất một cơ hội. Cũng là điều tự nhiên khi đa số người ta nói rằng họ không muốn đạt một mục tiêu cao đến thế và không muốn phải làm việc vất vả đến thế. Phần lớn các bệnh nhân – ngay cả những người nằm trong tay các chuyên viên trị liệu tài ba nhất và giàu yêu thương nhất – thường chấm dứt trị liệu nửa chừng khi họ còn cả một quãng đường dài phải bước tới nữa mới khai thông được tất cả tiềm năng của họ. Có thể họ đã vượt qua một chặng hành trình ngắn hay dài – song không ai trong họ đi hết con đường. Việc đi hết con đường xem ra đòi hỏi một nỗ lực lớn lao mà họ cho rằng họ không đáp ứng nổi. Họ bằng lòng làm những con người bình thường chứ không muốn phấn đấu để nên giống Thiên Chúa.
Ngay từ đầu cuộc thảo luận này chúng ta đã ghi nhận rằng tình yêu là một huyền nhiệm và rằng cho tới nay huyền nhiệm ấy đã bị phớt lờ. Đến đây, các câu hỏi đặt ra đã được trả lời. Song vẫn còn có những câu hỏi khác nữa – thật không dễ trả lời.
Một loạt các câu hỏi gay go ấy bật ra một cách tự nhiên từ những yếu tố bao hàm trong cuộc thảo luận của chúng ta. Chẳng hạn chúng ta đã thấy rõ rằng tình yêu là nền tảng của khả năng tự chế.
Nhưng còn cái gì là nền tảng để từ đó tình yêu xuất phát ra? Và nếu đặt câu hỏi ấy thì cũng phải hỏi đâu là những nguồn gốc của sự thiếu vắng tình yêu! Chúng ta đã ghi nhận rằng chính sự thiếu vắng tình yêu là nguyên nhân chủ chốt của tình trạng suy nhược tâm thần và, do đó, chính sự hiện diện của tình yêu là yếu tố chữa trị cốt yếu trong tâm lý trị liệu. Vậy thì, sẽ giải thích sao đây khi một số người – sinh ra và lớn lên trong một môi trường thiếu vắng tình yêu, đôi khi đó là một môi trường lãnh đạm và độc ác – lại có thể vượt qua tuổi thiếu thời của họ để trở thành những con người trưởng thành lành mạnh, đôi khi thậm chí trở thành những thánh nhân? Đàng khác, sẽ giải thích sao đây khi một số bệnh nhân – rõ ràng không yếu nhược hơn người khác – lại thất bại (một phần hay hoàn toàn) trong việc hưởng ứng tiến trình trị liệu đề ra bởi những chuyên viên trị liệu giỏi giang nhất và giàu yêu thương nhất?
Chúng ta sẽ cố gắng trả lời loạt câu hỏi ấy trong phần cuối cùng phần nói về ân sủng. Chắc hẳn những câu trả lời ấy sẽ không hoàn toàn làm thỏa mãn bất cứ ai, kể cả bản thân tôi. Tuy nhiên, tôi hy vọng chúng cũng có thể mang lại vài tia sáng.
Cũng còn có một lố câu hỏi khác nữa liên quan đến những vấn đề mà ta cố tình bỏ qua hoặc chỉ đề cập sơ sài khi thảo luận về tình yêu. Khi người tôi yêu lần đầu tiên đứng trần truồng trước mặt tôi không còn che đậy một chút gì, một cảm nghĩ sẽ xâm chiếm hoàn toàn con người tôi: kinh sợ! Tại sao thế? Nếu tính dục chỉ là một bản năng không hơn không kém thì tại sao tôi không duy chỉ cảm thấy “rạo rực” hay ham hố? Chỉ cần sự ham hố ấy thôi cũng đủ để bảo tồn giống loài rồi. Vậy thì do đâu mà tôi có tâm trạng kinh sợ? Tại sao tính dục cần phải kết hợp với lòng kính trọng? Và một vấn đề nữa bật ra: đâu là yếu tố làm nên cái đẹp? Chúng ta đã nhắc đến rằng đối tượng của tình yêu đích thực phải là một con người, bởi vì chỉ có con người mới có khả năng phát triển tinh thần. Thế thì phải nói sao về những tác phẩm trác tuyệt của những nghệ nhân bậc thầy? Chẳng hạn những bức phù điêu lừng danh thời trung cổ khắc họa Đức Mẹ Đồng Trinh? Hoặc pho tượng đồng chàng kỵ sĩ Hy lạp ở Delphi? Phải chăng những vật vô hồn ấy đã không được yêu bởi những con người tạo ra chúng, và phải chăng không có mối liên hệ nào giữa vẻ đẹp của chúng và tình yêu của những người đã tác tạo chúng? Còn vẻ đẹp của thiên nhiên nữa – thiên nhiên mà đôi khi chúng ta gọi là “tuyệt tác”? Và tại sao rất nhiều khi đứng trước vẻ đẹp hay đang dạt dào niềm vui, chúng ta lại có cái phản ứng kỳ cục và nghịch lý là trĩu buồn và rướm lệ? Tại sao chúng ta xúc động đến thế mỗi khi những khúc nhạc nào đó được tấu lên? Và tại sao tôi bật khóc khi đứa con trai sáu tuổi của mình – mới từ bệnh viện trở về và chưa bình phục hẳn – bất chợt sà đến chỗ tôi nằm và bắt đầu mơn trớn nhè nhẹ lưng tôi?
Rõ ràng là có những chiều kích của tình yêu mà ta chưa đề cập đến – và đó là những chiều kích khó hiểu nhất. Tôi không cho rằng những câu hỏi vừa nêu (và nhiều câu hỏi tương tự khác) có thể được giải đáp bởi khoa xã hội sinh vật học. Tâm lý học thông thường, với kiến thức của nó về các vành đai bản ngã, có thể góp một chút tia sáng – song chỉ một chút thôi. Những người nắm hiểu nhiểu nhiều nhất về các vấn nạn kể trên là những “con người tôn giáo”, tức những môn sinh của Huyền Nhiệm. Chúng ta không thể không đề cập đến họ và đến tôn giáo nếu chúng ta muốn có được một tia sáng lờ mờ soi rọi cho vấn đề.
Những trang còn lại của quyển sách này sẽ đề cập đến một số khía cạnh của tôn giáo. Phần kế tiếp sau đây sẽ bàn – một cách rất giới hạn – về mối quan hệ giữa tôn giáo và tiến trình trưởng thành.
Phần cuối cùng sẽ tập trung vào hiện tượng ân sủng và vai trò của ân sủng trong tiến trình này. Ý niệm ân sủng là một ý niệm hết sức quen thuộc trong lĩnh vực tôn giáo từ nhiều nghìn năm nay, nhưng nó rất xa lạ đối với khoa học, kể cả tâm lý học. Dù sao, tôi vẫn tin rằng cần phải hiểu biết một mức nào đó về hiện tượng ân sủng thì mới có thể thấu hiểu hoàn toàn tiến trình trưởng thành của con người. Tôi hy vọng rằng những gì được trình bày sau đây sẽ góp phần nhỏ nhoi vào cuộc giao duyên giữa tôn giáo và khoa tâm lý học.