Tiểu sử Thánh Annê Lê Thị Thành
(1781-1841)
Thánh Annê Lê Thị Thành (còn gọi là Bà Đê) một giáo dân Công Giáo (1781-1841), Tử vì đạo ngày 12 tháng 7 năm 1841, bà nói với con gái mình khi vào thăm mẹ trong nhà tù rằng “Con gái yêu à, đừng khóc. Vết máu trên áo mẹ như những đóa hồng. Mẹ vui vì được chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu. Tại sao con lại khóc?”
Thánh Annê Lê Thị Thanh sinh năm 1781 trong một gia đình Công giáo giàu có tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Cha cô đã cưới người vợ thứ hai vì mẹ ruột của cô không thể sinh cho ông một con trai để làm người thừa kế. Vì thế, mẹ cùng cô (lúc 12 tuổi) và em gái Thuộc (10 tuổi) phải rời cha đến định cư ở làng Đông, thị trấn Phúc Nhạc, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi, cô kết hôn với một người đàn ông Công giáo tên là Nguyễn Văn Nhất. Hai vợ chồng có hai con trai và bốn con gái. Bà còn được gọi là bà Đê, lấy tên con trai đầu lòng của bà theo phong tục địa phương. Hai vợ chồng rất coi trọng việc nuôi dạy con cái theo đức tin Công giáo. Thánh Annê Đê đặc biệt rất yêu mến và kính trọng các tu sĩ, các nhà truyền giáo và các linh mục bản địa nói riêng. Gia đình bà luôn sẵn sàng cung cấp nơi trú ẩn cho các giáo sĩ trong cuộc đàn áp Kitô Giáo.
Sáng Chúa Nhật Phục Sinh, ngày 14 tháng 4 năm 1841, một người tên Đễ vốn là phụ tá của cha Thành, đã phản bội cha Thành bằng cách lén báo tung tích các linh mục cho quan Tổng Đốc Nam Định, Trịnh Quang Khanh để nhận thưởng. Để thoát khỏi sự truy quét của Quan, ông Cơ, người đứng đầu Hội Đồng Mục Vụ, đã nhờ Thánh Annê Đê giấu Cha Jean Paul Galy Carles, một linh mục truyền giáo, trong một ngọn đồi khô ẩn sau bụi tre trong vườn nhà bà. Tuy nhiên, lính của quan đã phát hiện và bắt giữ Cha Jean cũng như Thánh Annê Đê vì tội giấu ngài. Ông Cơ, Thánh Annê Đê và 8 người khác bị xiềng xích đi bộ đến Nhà tù Nam Định. Thánh Annê Đê đã nhiều lần ngã trên đường vào tù vì chiếc cùm nặng nề trên cổ. Dù bị dụ dỗ, tra tấn dã man, thậm chí bị đánh đập, suýt bị rắn độc cắn do lính thả vào, nhưng bà vẫn kiên định với đức tin của mình.
Khi đến thăm mẹ trong tù, Nu Nguyen, con gái út của Thánh Annê Đê đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy quần áo của mẹ lấm lem máu loang lổ từ những vết thương đang rỉ máu. Thánh Annê Đê an ủi con gái: “Hỡi con gái yêu, đừng khóc. Những vết máu trên quần áo của mẹ giống như những bông hồng. Mẹ vui mừng vì được chịu đau khổ cùng Chúa Giêsu Kitô. Tại sao con khóc?" Trong một lần thăm nhà tù khác của con gái, Thánh Annê Đê nói với con gái: “Hãy dặn các anh chị em của con hãy chăm sóc gia đình thật tốt, phải là người Công giáo sùng đạo, trung thành cầu nguyện và tham dự thánh lễ, và cầu nguyện cho mẹ vững lòng vác thập giá đến cùng. Chúng ta sẽ sớm được đoàn tụ trên thiên đường.”
Ngoài việc phải chịu cực hình và suy dinh dưỡng trầm trọng, Thánh Annê Đê còn bị tiêu chảy truyền nhiễm (kỵ lỵ). Sức khỏe của cô sa sút nhanh chóng mặc dù có sự chăm sóc của hai nữ tu trong cùng một nhà tù. Thánh Annê Đê cuối cùng đã an nghỉ trong Chúa vào ngày 7 tháng 12 năm 1841 khi đang ở trong tù dưới thời vua Thiệu Trị. Theo luật lệ hiện hành, ngón chân của bà bị đốt cháy để chứng nhận cái chết của tù nhân. Thi thể của bà được chôn cất tại trường hành quyết được gọi là Năm Mẫu và sau đó được các Kitô hữu khác khai quật để chôn cất tại Nhà thờ Phúc Nhạc. Thánh Annê Đê được phong chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1909 và phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
(Trích sách “Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”,
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, tháng 5 năm 2018.
Bản dịch của Nam-Phương Nguyễn, Houston TX)